Thursday, December 5, 2013

Bệnh tiểu đường trở thành 'đại dịch' ở Việt Nam

Bệnh tiểu đường trở thành 'đại dịch' ở Việt Nam Wednesday, December 04, 2013 5:10:13 PM Print Email VIỆT NAM (NV) - Bệnh tiểu đường đã trở thành “đại dịch” tại Việt Nam trong năm 2013. Ðây là nhận định chung cuộc của cuộc hội thảo về bệnh tiểu đường do “Hội Nội Tiết và Ðái Tháo Ðường Việt Nam” phối hợp với công ty dược Novo Nordisk tổ chức tại Hà Nội mới đây. Hội nghị quốc tế tại Việt Nam báo động “đại dịch” tiểu đường. (Hình: Báo Pháp Luật và Xã Hội) Báo Pháp Luật & Xã Hội dẫn phúc trình của cuộc hội thảo cho biết, khoảng 1.2% dân số Việt Nam trong độ tuổi từ 20 đến 79 mắc bệnh tiểu đường, tính đến cuối năm 2013. Trong vòng 10 năm qua, từ năm 2002 đến năm 2012, số người mắc bệnh tiểu đường tại Việt Nam tăng 211%, tổng cộng khoảng 5 triệu người. Với con số này, Việt Nam trở thành một trong những quốc gia có số người bệnh tiểu đường tăng nhanh nhất thế giới. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, theo phúc trình của cuộc hội thảo, là vì nếp sống thiếu vận động và việc người dân áp dụng chế độ dinh dưỡng không hợp lý. Một số chuyên gia của cuộc hội thảo còn lên tiếng báo động về những thách thức mà Việt Nam phải đối phó một khi bệnh tiểu đường trở thành đại dịch đáng sợ. Ðó là tình trạng thiếu bác sĩ; thiếu máy móc ở các bệnh viện... Ðáng lo là dư luận cho rằng Việt Nam hiện có ít nhất 60% người mắc bệnh tiểu đường không biết mình bị bệnh. Hầu hết các bệnh nhân đã “không được điều trị đúng mức” vì thiếu tiền bạc, và vì Việt Nam thiếu cả cơ sở y tế chuyên môn. (PL) http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=178399&zoneid=1#.UqCBYdIW2i4

Friday, November 1, 2013

Cây cỏ ngọt - bạn của bệnh nhân tiểu đường



Cây cỏ ngọt - bạn của bệnh nhân tiểu đường/
Cây cỏ ngọt - bạn của bệnh nhân tiểu đường/Trong thiên nhiên có nhiều loại cây chứa đường năng lượng thấp, với độ ngọt cao gấp hàng trăm lần đường mía. Chúng được dùng làm chất thay thế đường cho những người phải kiêng loại thực phẩm này. Cỏ ngọt (còn gọi là cỏ mật, cỏ đường, cúc ngọt, trạch lan) là một loại cây như thế.

Cỏ ngọt được biết đến từ năm 1908. Hai nhà khoa học Reseback và Dieterich đã chiết xuất được glucozit từ lá cỏ ngọt. Đến năm 1931, Bridel và Lavieille mới xác định được glucozit đó chính là steviozit, chất cơ bản tạo nên độ ngọt ở loại cây này. Steviozit sau khi thủy phân sẽ cho 3 phân tử steviol và isosteviol. Chất steviol ngọt gấp 300 lần đường saccaroza, ít năng lượng, không lên men, không bị phân hủy mà hương vị thơm ngon, có thể dùng để thay thế đường trong chế độ ăn kiêng.

Đặc tính quan trọng của các glucozit này là có thể làm ngọt các loại thức ăn và đồ uống mà không gây độc hại cho người, không đòi hỏi kỹ thuật sản xuất phức tạp, năng suất cao, công nghệ thu hái chế biến đơn giản. Khối lượng thân, lá và chất lượng cỏ ngọt đạt cao nhất ở thời kỳ trước khi nở hoa, nghĩa là nên thu hoạch ở giai đoạn hình thành nụ.

Cỏ ngọt có nguồn gốc tự nhiên ở vùng Amambay và Iquacu thuộc biên giới Brazil và Paraguay. Ngày nay, nhiều nước trên thế giới đã phát triển việc dùng loại cây này trong đời sống. Ngay từ những năm đầu của thế kỷ 20, người dân Paraguay đã biết sử dụng cỏ ngọt như một loại nước giải khát. Đến những năm 70, cỏ ngọt đã bắt đầu được dùng rộng rãi ở Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc và nhiều nước Đông Nam Á. Tại Việt Nam, từ năm 1988, cỏ ngọt đã được nhập và trồng ở nhiều vùng như Hà Giang, Cao Bằng, Hà Tây, Lâm Đồng...

Chất ngọt chiết xuất từ lá cỏ ngọt khô được Công ty RSIT ở Canada gọi là “chất ngọt hoàng gia” bởi giá trị tuyệt vời của nó. Đây cũng là một công ty có bản quyền về chế tạo “chất ngọt hoàng gia” mà không gây ô nhiễm môi trường, không sử dụng hóa chất, sử dụng chất trao đổi ion để phân lập, chiết xuất và tinh chế các thành phần glucozit tự nhiên của cây.

Cỏ ngọt cũng được dùng như một loại trà dành cho những người bị bệnh tiểu đường, béo phì hoặc cao huyết áp. Một thí nghiệm được tiến hành trên 40 bệnh nhân cao huyết áp độ tuổi 50, cho thấy, loại trà này có tác dụng lợi tiểu, người bệnh thấy dễ chịu, ít đau đầu, huyết áp tương đối ổn định.

Trong công nghiệp thực phẩm, cỏ ngọt được dùng để pha chế làm tăng độ ngọt mà không làm tăng năng lượng của thực phẩm. Ngoài ra, loại cây này còn được dùng trong chế biến mỹ phẩm, chẳng hạn sữa làm mượt tóc, kem làm mềm da. Nó vừa có tác dụng nuôi dưỡng tất cả các mô, tái tạo làn da mới vừa chống nhiễm khuẩn, trừ nấm.
http://www.kyhoadithao.com/herbs.php?id=290

Cây Lá Dứa Trị Bịnh Tiểu Đường

SỐ 2 : Cây Lá Dứa Trị Bịnh Tiểu Đường

Một sự tình cờ, TRỜI đã ban cho gia tộc chúng tôi Người em gái thứ 5 lúc về Việt Nam, mang Lá Dứa qua Tây Đức để làm bánh. Nhưng không làm, lại tiếc của, lấy lá Dứa đem phơi khô nhưng còn thấy màu xanh, nấu nước uống cho thơm, nào ngờ đâu đo thử Đường lại quá tốt, tốt chưa từng thấy.!

Em Năm báo cho Em Sáu của tôi biết sự việc đã xảy ra như thế.

Em Sáu bắt đầu dùng Lá Dứa và Kết Quả quá tốt. Trước đó phải chích Insulin, bây giờ không cần chích Insulin nữa và có thể ăn cơm nhiều hơn trước.

Được tin tốt ấy, tôi bắt đầu uống Lá Dứa và bỏ thuốc tây . Tôi cũng đạt được kết quả Tuyệt Vời .

Theo sự hướng dẫn của tôi, bà Trần Vũ Bản vừa báo cho tôi là bà uống Lá Dứa cũng đạt kết quả tốt.

Lá Dứa là loại lá có mùi thơm khi bỏ vào cơm hay chè. Lá Dứa mua về rửa sạch đem phơi khô nhưng vẫn còn thấy màu xanh. Mỗi lần nấu chừng 10 lá Dứa, cắt nhỏ ra, với 2.5 lít nước, khi thấy còn lại chừng 2 lít là có thể dùng được. Với 2 lít nước lá Dứa nầy uống hết trong 1 ngày. Uống trước mỗi bữa ăn chừng 20 phút. Nếu 1 ngày ăn 3 lần thì mỗi lần uống 0.7 lít nước lá Dứa. Uống 1 tuần lễ mới bắt đầu có kết quả.

Tất cả 10 anh em trong gia đình chúng tôi uống Lá Dứa đều đạt được kết quả TỐT .

Chúc các bạn có bệnh Tiểu Đường uống lá Dứa có Kết Quả TỐT.

Uống Lá Dứa là quan trọng, NHƯNG kiêng cử trong ăn uống còn quan trọng hơn nhiều.

Một điều quan trọng nữa là Tập Thể Dục. Mỗi ngày nên tập thể dục nhẹ khoảng 30 phút thí dụ như đi bộ hay chạy bộ. Khi có Kết Quả Tốt, Xin Thông Báo cho tôi rất Cám Ơn .

KT61 Nguyễn Văn Bảnh
259 Westmoreland Ave, Toronto, Ontario, CANADA
Tel: 416-533-6757
Email: nguyen6757@rogers.com
http://www.take2tango.com/?display=4488

Bệnh Tiểu Đường & Hạnh Nhân

SỐ 4 : Bệnh Tiểu Đường & Hạnh Nhân (Almond)
BS Nguyễn Văn Hoàng Cập Nhựt 2009/06/06



Khi tìm hiểu nhiều về thuốc thì chúng ta thấy hầu như không có thuốc nào có thể bảo đảm hiệu nghiệm trên 100 % bệnh nhân. Thí dụ như thuốc giảm cholesterol, thông thường thì rất hiệu nghiệm, nhưng rồi cũng có người uống mà không thuyên giảm. Thuốc trị bệnh tiểu đường cũng vậy. Lý do có thể là có những nguyên nhân hiếm khác gây nên căn bệnh hay bệnh nhân có cấu tạo sinh lý hơi khác thường. Nói về nguyên nhân của bệnh tiểu đường thì có 2 loại chính.


1. Tiểu đường loại 1 : thiếu insulin.





Insulin là một kích tố do một số tế bào của tuỵ tạng tiết ra, giúp cho đường từ trong huyết thanh được thấm vào tế bào. Một số người có hệ thống miễn nhiễm không bình thường, thay vì kháng thể chỉ dùng để đánh giặc như chống siêu vi khuẩn, đám quân kháng thể này lại đi "đục gà nhà", tấn công vào các tế bào của tuyến tuỵ này, khiến nó suy yếu, không cung cấp đủ lượng insulin. (Hiện tượng này cũng giống như trong thực tế, người chống Cộng không lo chống Cộng mà đi chống phe ta). Bệnh do kháng thể của ta tấn công vào mô, tập hợp của tế bào) của chính chúng ta được xếp chung thành một nhóm, gọi là auto-immune diseases, Hoàng dịch ra là bệnh Tự Kháng (tự điển y khoa của ykhoa.net dịch là bệnh "tự miễn nhiễm", và Hoàng không đồng ý với cách dịch này).



2. Tiểu đường loại 2 : Insulin Resistance





Bệnh nhân bị tiểu đường loại 2 không phải vì bị thiếu insulin mà là vì đường không hấp thụ vào tế bào một cách bình thường.



Có nhiều lý do đưa đến tình trạng này. Bệnh nhân thường ở tuởi trung niên hoặc cao niên và thường hơi "có da có thịt". Đa số không cần chích Insulin vì không bị thiếu nhưng nếu thuốc uống không khống chế được căn bệnh thì cũng đi đến việc chích Insulin.


Bên cạnh hai loại chính này người ta còn thấy có khoảng 2 % bệnh nhân được liệt vào loại MODY (Mature Onset Diabetes of the Young). Bệnh nhân cũng bị thiếu Insulin như loại 1 nhưng không phải vì bị hiện tượng tự kháng mà là vì có gene bất thường.


Hiểu biết của con người ngày càng tiến, cho nên kiến thức về nguyên nhân của bệnh tiểu đường chưa chắc dừng lại ở đây.. Chi tiết thì rất nhiều, song trọng tâm của câu hỏi là tác dụng của Hạnh Nhân lên lượng máu mở, nên chúng ta chỉ lược sơ về bệnh tiểu đường như trên, và bắt đầu nói sơ về chất béo.



Chất Béo







Chất béo là chất hữu cơ, tức là chất có chứa ít nhất là 2 nguyên tố căn bản, carbon và hydrogen, thường thì có thêm oxygen và nitrogen. Mối liên kết giữa các nguyên tử là liên kết "cộng hoá trị". Mỗi một nguyên tử carbon (than) có khả năng tạo 4 mối liên kết, ta cứ tưởng tượng như là một cục chuỳ có 4 cái xích, với móc ở đầu sợi xích. Khi mỗi một móc xích ấy nối với một nguyên tử khác trong phân tử chất béo thì ta gọi đó là liên kết bão hoà (saturated). Khi có 2 móc xích ấy nối giữa 2 nguyên tử carbon thì liên kết của phân tử chất béo ấy chưa bão hoà, hay không bão hoà (unsaturated). Trong một phân tử, nếu có một mối liên kết không bão hoà thì ta gọi là mono-unsaturated, còn có nhiều mối liên kết không bão hoà thì tiếng Anh gọi là poly-unsaturated.






Chất béo có hại cho sức khoẻ là saturated fat, tức là chất béo bão hoà. Cách dễ phân định xem chất béo nào hại cho ta là xem nó ở thể lỏng hay đặc ở nhiệt độ bình thường. Loại chất béo đặc ở nhiệt độ bình thường như mỡ heo là không tốt.





Chất béo ở dạng lỏng trong nhiệt độ bình thường thông thường là unsaturated fat, tức là chất béo không bão hoà, như dầu olive, và nó làm giảm lượng mỡ xấu ở trong người, tức là có lợi cho sức khoẻ, nói một cách chung chung là như vậy. Loại mono-unsaturated fat làm giảm mỡ xấu và không làm giảm mỡ tốt trong người, loại poly-unsaturated fat làm giảm cả hai loại mỡ.






(Mỡ xấu, LDL (Low Density Lipoprotein), là loại mỡ đóng vào thành mạch máu, đưa đến tắt nghẽn, mỡ tốt, HDL (High Density Lipoprotein) thì có tác dụng ngược lại. Gọi là mỡ tốt và xấu là để dễ hiểu và rất nôm na, kỳ thực lipoprotein là những phân tử chất đạm dùng để chuyên chở chất cholesterol. LDL thì chở cholesterol đổ lên mạch máu, còn HDL thì chở cholesterol đổ vào gan và được tiêu hoá đi.)



Hạnh Nhân Trị Bịnh ?





Hạnh Nhân là mono-unsaturated fat, cho nên theo hiểu biết trên, nó không những không có hại mà còn có lợi trong việc bảo vệ bệnh tim mạch vì nó làm giảm mỡ xấu.


Theo Journal of Nutrition http://www.whfoods.com/genpage.php?tname=foodspice&dbid=20, Hạnh Nhân không những làm giảm lượng đường trong máu sau buổi ăn mà còn làm sạch đông mạch.



Nhận Định Riêng Của BS Nguyễn Văn Hoàng

Liều Lượng, Liều Lượng & Liều Lượng





Kính thưa bác và quý vị,



Sau những điều trình bày trên thì Hạnh Nhân rất tốt cho cả bệnh tiểu đường lẫn bệnh tim mạch, vừa hạ lượng đường vừa hạ lượng mỡ xấu. Tuy nhiên khi xét hầu hết mọi sự trên đời này, bao gồm dược liệu, ta đều phải nhắc đến hai chữ quan trọng nhất : Liều Lượng. Ngay cả tiền và quyền, không có hay có quá ít thì cũng khổ, mà có dư quá thì dễ ... sanh tật. Nói về dược phẩm, muốn biết được liều lượng tối ưu thì cần có sự nghiên cứu tỉ mỉ.


Nghiên cứu của thuốc giảm mỡ của Tây Y được tiến hành trên cả trăm ngàn bệnh nhân. Còn liều lượng của Hạnh Nhân được nghiên cứu trên bao nhiêu bệnh nhân, có khảo sát phản ứng phụ chưa, thì Hoàng không biết. Hoàng cho rằng bất cứ một dược liệu nào khi bắt đầu có tác dụng chính, tức là tác dụng mà ta mong muốn thì cũng có kèm theo tác dụng phụ, tức là unwanted, hay side effects, nhiều hay ít, đáng kể hay không đáng kể mà thôi.



Trong hạt Hạnh Nhân, ngoài chất béo, nó còn chứa nhiều chất khác như manganese, Vitamin E, Magnesium, Tryptophan, đồng, Vietamin B12, lân tinh (phosphorus) ... Thuốc Tây không, hay ít có chứa tạp chất như vậy. Ăn/uống nhiều Hạnh Nhân quá có thể làm tăng hiểm nguy của sạn thận, làm sình bụng và làm mập. Mập thì không tốt cho sức khoẻ.


Nếu xem trên internet thì ta sẽ thấy Tây Phương nói rất nhiều về công dụng của Hạnh Nhân đối với bệnh tiểu đường chớ không phải chỉ có đông y mới biết, song Hạnh Nhân vẫn chưa được chính thức là một trị liệu mà bộ y tế Úc khuyến khích BS sử dụng. Bảo rằng dược thảo không có hay ít có tác dụng phụ như thuốc Tây chỉ chứng minh sự thiếu hiểu biết của mình mà thôi.



Theo quan điểm của Hoàng, nếu chúng ta ở một nơi mà không có thuốc Tây, Hạnh Nhân trúng mùa, hoặc nếu thuốc Tây chữa không xong, thì mới dùng đến các liều dược thảo. 3 lý do chính là (1) dược thảo ít khi được nghiên cứu tường tận, (2) có chứa nhiều tạp chất và (3) bất tiện khi dùng (phải nấu, phải gạn, uống nhiều, trong khi thuốc Tây "bụp" một viên vô miệng là xong) mà chưa chắc rẻ hơn.






Nếu đi xe hơi được thì ta không cần đi ngựa, trừ phi gặp vùng núi non, không có đường xá. Đi ngựa là một thể thao, một thú tiêu khiển hơn là phương tiện di chuyển chính. Thuốc Tây ví như xe hơi mà Hạnh Nhân ví như tuấn mã.





Để kết luận câu trả lời cho bác, Hoàng nghĩ, dùng một liều lượng nhỏ hạt Hạnh Nhân có lợi cho sức khoẻ, nhưng không nên dùng nó như trị liệu chính cho căn bệnh tiểu đường, vì nghiên cứu về dược tính và độc tính của loại hạt này ở liều lượng có thể chữa được bệnh chưa được rõ ràng.



BS Nguyễn Văn Hoàng

(hoang4eb@gmail.com)

http://www.congdongnguoiviet.fr/KhoaHoc/0906BinhTieuDuongH.htm

Nước ép củ chuối hột giúp ổn định đường huyết






SỐ 2 : Chuối hột chữa tiểu đường


Ảnh: CTU.

Nước ép củ chuối hột giúp ổn định đường huyết. Ngoài ra, chuối hột còn được dân gian dùng trị nhiều bệnh khá hiệu quả mà không tốn kém.

Cây chuối hột có tên khoa học là Musra barjoo sieb, có nơi gọi chuối chát.

Để chữa bệnh tiểu đường, đào lấy củ cây chuối hột, rửa sạch, giã nát, ép lấy nước uống. Việc dùng thường xuyên và lâu dài có tác dụng ổn định đường huyết.

Vì củ chuối không nhiều và đào củ phức tạp, có thày thuốc (ở Trung Quốc) đã cải tiến cách dùng: Cắt ngang cây chuối hột, khoét một lỗ, đậy nylon lên, để nước cây chuối tiết ra đọng vào đó. Lấy nước này cho người bệnh uống. Khi đoạn trên héo thì cắt thấp xuống phía dưới; một cây cắt ngang như thế dùng được nhiều lần. Mùa mưa, nước chuối loãng thì uống nhiều hơn mùa nắng. Điều trị theo cách này, bệnh cũng thuyên giảm rõ rệt.

Cũng có thể chọn cây chuối có bắp đang nhú, cắt ngang gốc (cách mặt đất khoảng 20 cm), lấy dao khoét một lỗ rỗng to ở thân chuối, để một đêm, sáng hôm sau múc nước từ lỗ rỗng (do thân chuối tiết ra) mà uống.

Vị thuốc đa năng

Theo cuốn “450 vị thuốc nam có tên trong bản Dược thảo Trung Quốc”, lá và vỏ quả chuối hột khô sắc uống làm thuốc lợi tiểu và chữa được chứng phù thũng sưng chân; rễ sắc uống chữa cảm mạo, bệnh dạ dày, đau bụng.

Chữa sỏi thận: Lựa quả chuối hột thật chín, lấy hột phơi khô, tán nhỏ nấu lấy nước uống; cho 7 thìa nhỏ bột hột chuối vào 2 lít nước, đun nhỏ lửa khi còn 2/3 nước là được. Uống hằng ngày như nước trà, liền 2-3 tháng, cho kết quả khá tốt.

Một cách khác: Dùng chuối hột một buồng già đem thái mỏng, phơi khô, tán nhỏ thành bột, mỗi ngày uống 3 thìa canh, uống liền 2-3 tháng. Hoặc quả chuối hột đã thái mỏng, sao vàng, hạ thổ 7 ngày; mỗi ngày lấy 1 vốc tay (chừng 1 quả) sắc với 3-4 bát nước, uống vào lúc no.

Ngoài ra, quả chuối hột còn xanh được dùng điều trị bệnh hắc lào: Cắt đôi, xát trực tiếp vào nơi tổn thương, dùng liên tục 7-8 ngày là khỏi. Với trẻ táo bón, người ta lấy 1-2 quả chuối chín đem vùi vào bếp lửa cho vỏ quả ngả màu đen chín nhũn, lấy ra để nguội cho trẻ ăn, khoảng 10 phút sau là đi tiêu được.
http://www.vnexpress.net/Vietnam/Doi-song/2007/10/3B9FB34E/

Chất omega-3 giúp giảm nguy cơ ung thư ruột

SỐ 1 : Chất omega-3 giúp giảm nguy cơ ung thư ruột
RFA 17.03.2010

Một loại chất béo có thể lấy từ cá và một số hạt thực vật có khả năng trị các khối u polyps có thể gây ung thư ruột cho con người.

Kết quả nghiên cứu công bố hôm thứ năm trên tạp chí y học của Hiệp hội y khoa Anh quốc cho bìết điều này.

Cuộc thí nghiệm trên 50 người tình nguyện được tiêm chất làm tăng khối u polyps cho thấy 28 người nhận 2 gram Omega-3 mỗi ngày đã giảm 12% những mụn polyp đó. 27 người kia uống chất giả omega-3 thì lại bị tăng 10%. Omega-3 được gọi là "chất béo tốt", đối nghịch với những chất béo xấu từ động vật và một số dầu thực vật khác.

Kích thước các khối u ở người uống thuốc thật cũng giảm 12,5%, trong khi kích thước đó ở những người uống thuốc giả đã tăng 17%.

Chất celecoxib trong thuốc Celebrex cũng cho kết quả tương tự, nhưng Celebrex bị nghị gây phản ứng phụ về tim mạch cho người cao niên, trong khi Omega-3 được cơ thể tiếp nhận tốt đẹp.

Omega-3, bán tự do trên thị trường, trong mấy năm nay cũng được dùng để giảm lượng cholesterol xấu, giảm lượng mỡ trong máu, và giúp tăng cholesterol tốt cho những người bị cao cholesterol.
http://www.rfa.org/vietnamese/VietnameseNews/InternationalNews/Omega-3-supplement-targets-bowel-cancer-risk-03172010212138.html?searchterm=None

rượu tỏi chữa được Bệnh trĩ và Tiểu đường

TỎI là dược thảo thiên nhiên rất tốt, dễ sử dụng, rẻ tiền và không gây phản ứng phụ

Uyên Hạnh 26/08/2010

Sau 40 tuổi cơ thể chúng ta thường không còn hoạt động mạnh như trước đây, đặc biệt các chức năng hấp thụ chất béo và chất đường bị suy giảm. Lượng chất béo và chất đường không hấp thụ hết qua đường tiêu hoá không thải ra ngoài sẽ đọng dần trong thành vách mạch máu, làm xơ cứng động mạch và xơ cứng một số bộ phận khác, lâu ngày tạo ra những chứng bệnh về tim mạch. Tỏi là một trong những loại dược thảo thiên nhiên làm giảm lượng chất béo trong máu và làm giảm huyết áp cho người bị cao máu. Cao máu cao mỡ là hai loại bệnh thường gặp phải ở người lớn tuổi.

Dùng tỏi ngâm rượu sẽ có được “một loại thuốc tuyệt vời của nhân loại vì dễ làm, rẻ tiền, không gây phản ứng phụ và có hiệu quả chữa bệnh rất cao". Trong tỏi có selen và các nguyên tố vi lượng chứa kháng khuẩn alliin (hay alicin), phitoncid, là một dạng kháng sinh tự nhiên, làm tăng cường khả năng của hệ thống miễn dịch, chống chọi được các bệnh cảm cúm vặt vãnh hay bệnh nặng hơn là viêm.Hoạt tính màu vàng trong tỏi giúp làm tiêu chất béo dưới dạng cholesterol bám vào thành vách mạch máu.

Các nhà nghiên cứu Hoa Kỳ, Tây Âu, Nhật Bản của cơ quan WHO - Cơ quan Sức khoẻ và Bệnh tật Thế giới đã được gửi đến Ai Cập, một nước dùng tỏi và rượu tỏi từ thời xưa. Chuyên gia của WHO sau các cuộc nghiên cứu và khảo sát đã đưa ra nhận xét rằng rượu tỏi được dùng ở Ai Cập đã giúp cho dân chúng tại nước nầy có sức khoẻ tốt, ít bệnh tật và tuổi thọ tương đối cao. Được biết thời gian chiến tranh không có thuốc kháng sinh, người dân Ai Cập đã dùng nước tỏi để uống và rửa vết thương. Chuyên gia các nước nêu trên đã nghiên cứu và phân tích rượu tỏi và gửi báo cáo cho Cơ quan WHO. Cơ quan nầy đã tổng kết và tổ chức hội thảo về đề tài này. Năm 1980 họ đưa ra thông báo rượu tỏi chữa trị được các chứng bệnh thấp khớp như sưng khớp, đau nhức các khớp xương. Bệnh tim mạch như bị huyết áp cao. Viêm phế quản, viêm họng, hen suyển. Bệnh về đường tiêu hoá như ăn khó tiêu, ợ chua, viêm tá tràng, loét bao tử. Năm 1983, Nhật bổ sung bằng kết quả mới là rượu tỏi chữa được Bệnh trĩ và Tiểu đường.
http://www.khoahoc.net/doisong.htm

Dầu dừa giúp chữa trị tiểu đường

Dầu dừa giúp chữa trị tiểu đường
bangson cập nhật ngày: 04/03/2011

Những nghiên cứu khoa học mới nhất cho thấy, cách chữa trị tiểu đường đơn giản ở giai đoạn đầu là sử dụng dầu dừa.
Dầu dừa giúp chữa trị tiểu đường


Tiểu đường là bệnh nội tiết và bị mắc bệnh này khi người ta thiếu hocmon insulin. Ở những bệnh nhân tiểu đường, tất cả các quá trình trao đổi chất bị phá huỷ.

Bệnh có nhiều dạng. Người bị bệnh typ 2 thiếu insulin thường là những người bị béo phì, thừa cân nhiều so với tiêu chuẩn.

Các thử nghiệm cho thấy đối với các bệnh nhân này có thể dùng dầu dừa để chữa trị. Các chuyên gia đã nghiên cứu một chế độ ăn kiêng đặc biệt trong đó có thành phần là dầu dừa. Nó có tác dụng ngăn cản rất mạnh sự tích luỹ mỡ trong cơ thể, giúp các tế bào phản ứng với unsulin. Dầu dừa có tác dụng rất tốt đối với những người rầu rĩ về chuyện thừa cân.

Ngoài ra người ta còn cho rằng chất monolaurintrong dầu dừa là một chất kháng sinh thiên nhiên, chống lại một số vius xâm nhập cơ thể.

http://tretoday.net/news/news/6_Khoa_Hoc/457427_Dau_dua_giup_chua_tri_tieu_duong/?

Chữa tiểu đường từ quả ổi

Chữa tiểu đường từ quả ổi
bangson cập nhật ngày: 01/06/2011

Các bộ phận của cây ổi như vỏ rễ, vỏ thân, lá non, búp, quả đều được dùng làm thuốc.
Dịch chiết từ các bộ phận của cây ổi có tác dụng kháng khuẩn, làm se niêm mạc và cầm đi tiêu chảy. Tuy vậy, những người đang bị táo bón, bị tả lỵ có tích trệ không được dùng.


Chữa chứng tiêu chảy: vỏ dộp ổi hoặc búp ổi 20g, búp hoặc nụ sim, búp vối, búp chè, gừng tươi, hạt cau già, mỗi thứ 12g. Rốn chuối tiêu 20g. Mang tất cả các vị trên sắc đặc uống. Hoặc vỏ dộp ổi 8g, búp ổi 12g, tô mộc 8g, gừng tươi 2g, sắc với 200ml nước còn 100ml. Trẻ từ 2-5 tuổi uống 5-10ml, cách 2 giờ uống một lần. Người lớn uống 20-30ml, mỗi ngày 2-3 lần.

Chữa chứng lỵ mãn tính: lá ổi tươi 30-60g sắc uống. Hoặc quả ổi khô 2-3 quả thái lát sắc uống.

Chữa chứng tiêu hóa không tốt ở trẻ em: lá ổi 30g, tây thảo 30g, hồng trà 12g, gạo tẻ sao thơm 15-30g, sắc với 1000ml cô còn 500ml. uống mỗi ngày: trẻ từ 1-6 tháng tuổi uống 250ml, từ 1 tuổi trở lên uống 500ml, chia uống làm nhiều lần.

Chữa chứng thổ tả: dùng lá ổi, lá vối, lá sim, hoắc hương lượng bằng nhau sắc uống.

Chữa chứng sa trực tràng: lấy một lượng vừa đủ lá ổi tươi sắc kỹ ngâm hậu môn.

Chữa chứng băng huyết: dùng quả ổi sao cháy tồn tính tán bột. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 9g với nước ấm.

Chữa tiểu đường: lá ổi khô 15-20g sắc uống hàng ngày. Hoặc ăn vài quả ổi chừng 200g.

Chữa mụn nhọt mới phát: lá ổi non, lá đào lượng vừa đủ, đem giã nát rồi đắp lên chỗ sưng đau.

http://tretoday.net/news/news/92_Benh_Ly/475052_Chua_tieu_duong_tu_qua_oi_/?

Saturday, October 12, 2013

mua ban hat chum ngay

mua ban hat chum ngay http://www.mediafire.com/download/ux68n2qbghu3mm6/cay_chum_ngay_vi_thuoc_quy.pdf http://www.mediafire.com/download/ux68n2qbghu3mm6 http://www.mediafire.com/download/ux68n2qbghu3mm6 http://www.mediafire.com/download/ux68n2qbghu3mm6 mua bán hạt chùm ngây cây chùm ngây vị thuốc quí Tiến sỹ THÍCH THIỆN MỸ 560/TA- Ấp Tân An-Xã Tân Thành Huyện Lai Vung – Đồng Tháp DD: 0939.826271 Email : thienmy.thich@gmail.com Chùm ngây: loài cây vạn năng cho vùng sinh thái khắc nghiệt Cây chùm ngây còn được gọi là "cây phép mầu", "cây thần diệu", hay "cây phép lạ", bắt nguồn từ tên tiếng Anh là "Miracle tree" Tiếng Ấn Độ là “ Moringa”. Thật vậy, đây là một loài cây đa tác dụng hay nói cách khác là cây vạn năng (multipurpose tree), vì ở nhiều nơi trên thế giới, nhất là các vùng đang phát triển ở châu Á và châu Phi, nó được xem tài nguyên vô giá, chống nạn thiếu dinh dưỡng, Thông tin chi tiết về cây chùm ngây bảo vệ sức khỏe cộng đồng và phòng hộ giảm nhẹ thiên tai. Ngoài khả năng cung cấp chất dinh dưỡng, các bộ phận của cây chùm ngây còn có dược tính phổ rộng, được dùng để điều trị rất nhiều bệnh khác nhau. Chính nền y học cổ truyền của Ấn Độ cũng đã xác định được 300 bệnh khác nhau được điều trị bằng lá của cây này. 1. Về dinh dưỡng học: cây chùm ngây đã thể hiện được rằng, hầu hết các bộ phận sống của nó có chứa đủ các thành phần dinh dưỡng, có thể giúp ích cho sự sống của con người và động vật. 1.1. Lá cây được dùng làm rau ăn (lá, chồi, cành non và cả cây con được dùng trộn dầu dấm ăn thay rau diếp), làm bột cà-ri, ủ chua làm gia vị, làm trà giải khát... Ở châu Phi, nó được dùng để chống suy dinh dưỡng cho trẻ con. Lá chùm ngây chứa nhiều vitamin và muối khoáng có ích, với hàm lượng rất cao: vitamin C cao gấp 7 lần trong cam, provitamin A cao gấp 4 lần trong cà-rốt, calcium cao gấp 4 lần trong sữa, potassium cao gấp 3 lần trong chuối, sắt cao gấp 3 lần trong rau diếp, và ngay cả protein cũng cao gấp 2 lần trong sữa. Ngoài ra, nó còn chứa nhiều vitamin B, các acid amin có lưu huỳnh như methionin, cystein và nhiều acid amin cần thiết khác. Do vậy, lá chùm ngây được xem là một trong những nguồn dinh dưỡng thực vật có giá trị cao. Trong 100 g bột lá sấy khô có: calori 205, protein (g) 27,1, chất béo (g) 2,3, carbohydrate (g) 38,2, chất xơ (g) 19,2, Ca (mg) 2,003, Mg (mg) 368, P (mg) 204, K (mg) 1,324, Cu (mg) 0,57, Fe (mg) 28,2, S (mg) 870, acid oxalic (mg) 1,6%, vitamin A-β carotene (mg) 16,3, vitamin B1 - thiamin (mg) 2,64, vitamin B2 - riboflavin (mg) 20,5, vitamin B3 - nicotinic acid (mg) 8,2, vitamin C - ascorbic acid (mg) 17,3, vitamin E - tocopherol acetate (mg) 113, arginin (g/16gN) 1,33%, histidin (g/16gN) 0,61%, lysin (g/16gN) 1,32%, tryptophan (g/16gN) 0,43%, phenylanaline (g/16gN) 1,39%, methionine (g/16gN) 0,35%, threonine (g/16gN) 1,19%, leucine (g/16gN) 1,95%, isoleucine (g/16gN) 0,83%, valine (g/16gN) 1,06%. 1.2. Bông chùm ngây có thể dùng để làm rau ăn hoặc làm trà (nhiều nước Tây phương sản xuất trà hoa chùm ngây bán ngoài thị trường), cung cấp tốt nguồn muối khoáng calcium và potassium. Nó cũng là nguồn cung cấp nguyên liệu rất tốt cho người nuôi ong. Quả non của nó có thể chiên xào để ăn với hương vị như măng tây. 1.3. Hạt chùm ngây chứa nhiều dầu, lượng dầu chiếm đến 30 - 40% trọng lượng hạt, có nơi trồng chùm ngây ép dầu, năng suất dầu đạt 10 tấn / ha. Dầu hạt chùm ngây chứa 65,7% acid oleic, 9,3% acid palmitic, 7,4% acid stearic và 8,6% acid behenic. Ở Malaysia, hạt chùm ngây được dùng để ăn như đậu phụng. Dầu chùm ngây ăn được, và còn được dùng bôi trơn máy móc, máy đồng hồ, dùng cho công nghệ mỹ phẩm, xà phòng, dùng để chải tóc. Dầu chùm ngây được bán ở thị trường dưới tên gọi tiếng Anh là ben-oil. Chính vì thế cây chùm ngây có tên là "Ben-oil tree". 1.4. Các đoạn rễ non được dùng làm rau thay cho cải ngựa. Cải ngựa là một loài rau diếp với tên khoa học là Armoracia rusticana = Cochlearia armoracia, tên tiếng Anh là Horseradish, vì thế cây chùm ngây còn có tên tiếng Anh là "Horsradish tree" và cũng từ đó người Việt còn gọi nó là "cây cải ngựa". 2. Về y học: nhiều bộ phận của cơ thể cây chùm ngây đã được dùng làm thuốc chữa nhiều bệnh khác nhau. 2.1. Lá, hoa và rễ được dùng trong y học cộng đồng, 1/ chữa trị các khối u. 2/ Lá dùng uống để điều trị chứng hạ huyết áp và 3/vò xát vào vùng thái dương để trị chứng nhức đầu. Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy rằng, 4/ lá chùm ngây có tính chất như một kháng sinh chống các viêm nhiễm nhỏ. 5/ Theo Hartwell, hoa, lá, và rễ còn được dùng trị sưng tấy; 6/còn hạt dùng trị trướng bụng. 7/ Lá còn được dùng để điều trị các vết cắt ở da, vết trầy sướt, sưng tấy, nổi mẩn ngứa hay các dấu hiệu của lão hóa da. 8/ Dịch chiết từ lá có tác dụng duy trì ổn định huyết áp, trị chứng bần thần, chống nhiễm trùng da. 9/Nó cũng được dùng để điều khiển lượng đường máu trong trường hợp bị bệnh tiểu đường. Dịch chiết từ lá có thêm nước cà-rốt là một thức uống lợi tiểu. Bột làm từ lá tươi có khả năng cung cấp năng lượng làm cho năng lượng tăng gấp bội khi dùng thường xuyên. 10/Lá cũng được dùng chữa sốt, viêm phế quản, viêm nhiễm mắt và tai, viêm màng cơ, 11/diệt giun sán và làm thuốc tẩy xổ. 12/ Sản phụ ăn lá sẽ làm tăng tiết sữa. Ở Philippines lá được chỉ định dùng chống thiếu máu, do chứa lượng sắt cao. 13/ Hạt điều trị bệnh viêm dạ dày. Dầu hạt được dùng ngoài để điều trị nấm da. Trường Đại học San Carlos ở Guatemala đã tìm ra một loại kháng sinh có tác dụng như neomycin có khả năng bảo vệ da khỏi sự viêm nhiễm do Staphylococcus aureus. Loại kháng sinh này là một hỗn hợp kháng khuẩn và nấm có tên pterygospermin, danh pháp hóa học là glucosinolate 4 alpha-L-rhamnosyloxy benzyl isothiocyanate. Nhiều nơi trên thế giới dùng bột nghiền từ hạt để khử trùng nước sông, nước sông trong mùa lũ có tổng số trực trùng Escherichia coli lên tới 1.600 - 18.000 / 100 ml, được xử lý bằng bột hạt chùm ngây trong vài giờ đồng hồ đã giảm xuống còn 1 - 200 / 100 ml. 14/ . Rễ có vị đắng, được xem như một loại thuốc bổ cho cơ thể và phổi, điều kinh, long đàm, lợi tiểu nhẹ. 15/ Ở Nicaragua, nước sắc rễ được dùng chữa bệnh phù thủng. Dịch rễ được dùng ngoài để điều trị chứng mẩn ngứa do dị ứng. Trong rễ và hạt, cũng có chất kháng sinh pterygospermin. 2.4. Vỏ cây được dùng điều trị chứng thiếu vitamin C, đôi khi dùng trị tiêu chảy. 2.5. Trong những năm gần đây, những công trình nghiên cứu được công bố trong các báo "Phytotherapy Rechearch" và "Hort Science" cũng đã cho thấy các tác dụng khác nhau của các bộ phận cây chùm ngây như, chống hạ đường huyết, giảm sưng tấy, chữa viêm loét dạ dày, điều trị chứng hạ huyết áp và ngay cả làm êm dịu thần kinh trung ương. VIII. CÔNG DỤNG CỦA CÂY CHÙM NGÂY TRÊN THẾ GIỚI: 16/ Mỹ hiện nay là nước nhập nguyên liệu Moringa thô nhiều nhất, sử dụng trong công nghê mỹ phẩm cao cấp, nước uống và quan trong hơn là chiết suất thành nguyên liệu tinh cung ứng cho công nghiệp dược phẩm, hóa chất. 17/ Ấn Độ: Chùm Ngây được gọi là sainjna, mungna (Hindi, Asam, Bengal..); Phạn ngữ: Shobhanjana.Là một trong những cây thuốc “dân gian” rất thông dụng tại Ấn Độ. Vỏ thân được dùng trị nóng sốt, đau bao tử, đau bụng khi có kinh, sâu răng, làm thuốc thoa trị hói tóc; trị đau trong cổ họng (dùng chung với hoa của cây nghệ, hạt tiêu đen, rễ củ Dioscorea oppositifolia); trị kinh phong (dùng chung với thuốc phiện); trị đau quanh cổ (thoa chung với căn hành của Melothria heterophylla, Cocci nia cordifolia, hạt mướp (Luffa) và hạt Lagenaria vulgaris); trị tiểu ra máu; trị thổ tả (dùng chung với vỏ thân Calotropis gigantea, Tiêu đen, và Chìa vôi. Hoa dùng làm thuốc bổ, lợi tiểu. Quả giã kỹ với gừng và lá Justicia gendarussa để làm thuốc đắp trị gẫy xương. Lá trị ốm còi, gây nôn và đau bụng khi có kinh. Hạt: dầu từ hạt để trị phong thấp. 18/ Pakistan: Cây được gọi là Sajana, Sigru. Cũng như tại Ấn, Chùm Ngây được dùng rất nhiều để làm các phương thuốc trị bệnh trong dân gian. Ngoài các cáchsử dụng như tại Ấn độ, các thành phần của cây còn được dùng như : Lá giả nát đắp lên vết thương, trị sưng và nhọt, đắp và bọng dịch hoàn để trị sưng và sa; trộn với mật ong đắp lên mắt để trị mắt sưng đỏ.. Vỏ thân dùng để phá thai bằng cách đưa vào tử cung để gây giãn nở. Vỏ rễ dùng sắc lấy nước trị đau răng, đau tai..Rễ tươi của cây non dùng trị nóng sốt , phong thấp, gout, sưng gan và lá lách..Nhựa từ chồi non dùng chung với sữa trị nhức đầu, sưng răng.. 19/ Trung Mỹ: Hạt Chùm Ngây được dùng trị táo bón, mụn cóc và giun sán • Saudi Arabia : Hạt được dùng trị đau bụng, ăn không tiêu, nóng sốt, sưng tấy ngoài da, tiểu đường và đau thắt ngang hông. • Việt Nam : Rễ Chùm Ngây được cho là có tính kích thích, giúp lưu thông máu huyết, làm dễ tiêu hóa, tác dụng trên hệ thần kinh, làm dịu đau. Hoa có tính kích dục. Hạt làm giảm đau. Nhựa (gomme) từ thân có tác dụng làm dịu đau. Liều lượng và các phản ứng phụ cần lưu ý: Hiện nay chưa có những báo cáo về những nguy hại đối với sức khoẻ trong việc sử dụng Hạt và Rễ Chùm Ngây theo các liều lượng trị liệu. Tuy nhiên dùng liều quá cao có thể gây ra buồn nôn, chóng mặt và ói mửa. Liều cho uống : 5gram/ kg trọng lượng cơ thể, thử trên chuột , gây phản ứng keratin hóa quá mức tế bào bao tử và sơ hóa tế bào gan. Liều chích qua màng phúc toan 22 đến 50 mg/ kg trọng lượng cơ thể gây tử vong nơi chuột thử nghiệm. Không nên dùng Rễ Chùm ngây nơi phụ nữ có thai, vì có khả năng gây trụy thai. ( Nguồn:DS Trần Viết Hưng/ ĐH Cần Thơ) 3. Về ứng dụng công nghiệp: gỗ cây chùm ngây rất nhẹ, có thể dùng làm củi, nhưng năng lượng không cao. Nó được xem là nguồn nguyên liệu tiềm năng cho kỹ nghệ giấy và còn được dùng để chế phẩm màu xanh. Vỏ cây có khả năng cung cấp ta-nanh (tannin, tanin), nhựa dầu và sợi thô. 4. Khả năng phòng hộ: Cây chùm ngây thuộc loại cây mọc nhanh và dễ tính, sống được ở những điều kiện đất đai khô cằn và trong điều kiện khí hậu khắc nghiệt, chịu được hạn hán. Do vậy, nhiều nơi trên thế giới, cây chùm ngây được trồng làm hàng rào xanh che chắn cho các khu sản xuất nông nghiệp, che bóng cho các cây công nghiệp dài ngày, chắn gió, chắn cát bay. Ngoài ra, cây có khả năng cải tạo đất, lá dùng làm phân xanh và làm thức ăn bổ sung cho gia súc rất tốt, cây có lá nhỏ, thân thon, tán đẹp nên được trồng làm cảnh. 5. Đặc điểm hình thái học: Cây chùm ngây có dạng sống là cây gỗ nhỏ, cao từ 8 - 10m. Lá kép lông chim 3 lần, dài 30 - 60 cm, với nhiều lá chét màu xanh mốc mốc, không lông, dài 1,3 - 2 cm, rộng 0,3 - 0,6 cm; lá kèm bao lấy chồi. Hoa thơm, to, dạng hơi giống hoa đậu, tràng hoa gồm 5 cánh, màu trắng, vểnh lên, rộng khoảng 2,5 cm. Bộ nhị gồm 5 nhị thụ xen với 5 nhị lép. Bầu noãn 1 buồng do 3 lá noãn, đính phôi trắc mô. Quả nang dài từ 30 - 120 cm, rộng 2 cm, khi khô mở thành 3 mảnh dày. Hạt nhiều (khoảng 20), tròn dẹp, to khoảng 1 cm, có 3 cánh mỏng bao quanh. 6. Đặc điểm phân loại: chùm ngây là một trong 13 loài thuộc chi Moringa, họ Moringaceae, với tên khoa học là Moringa oleifera Lamk.. Trong đó, Moringa là tên chi, được Latin hóa từ tên bản xứ gốc tiếng Tamil murungakkai, oleifera có nghĩa là chứa dầu, được ghép bởi gốc từ olei- (dầu) và -fera (mang, chứa). Tên đồng nghĩa là Moringa pterygosperma Gaertn. (pterygosperma: phôi có cánh, tên kháng sinh pterydospermin cũng từ đây mà có), Guilandina moringa L., Moringa moringa (L.) Small. Trên thế giới, chùm ngây được gọi dưới nhiều tên khác nhau: Tiếng Anh: Horsradish tree, Ben tree, Behn tree, Ben-oil tree, Benzolive tree, West Indian ben, Drumstick tree, Moringa tree Tiếng Pháp: Ben ailé, Ben ailée, Ben oléifère, Moringa ailée, Pois quénique Tiếng Đức: Behenbaum, Behennussbaum, Meerrettichbaum Tiếng Hà Lan: Benboom, Peperwortel boom Tiếng Ý: Been, Bemen. Tiếng Arabia: Habbah ghaliah, Rawag (Sudan), Shagara al ruway (Sudan). Tiếng Bồ Đào Nha: Acácia branca, Moringa, Muringueiro. Tiếng Tây Ban Nha : Arbol de las perlas, Arbol do los aspáragos, Ben, Jacinto (Panama), Jasmin francés, Jazmin francés (Puerto Rico), Maranga, Maranga calalu (Honduras), Marango (Costa Rica), Palo de aceite (Dominican Republic), Palo de abejas (Dominican Republic), Paraíso, Paraíso blanco (Guatemala), Perlas (Guatemala), Resada (Puerto Rico). Tiếng Nga: Моринга олейфера. Tiếng Myanmar: Dandalonbin, Dan da lun. Tiếng Nhật: Wasabi no ki. Tiếng Khmer : Daem mrom. Tiếng Indonesia : Kelor, Kalor. Tiếng Malaysia : Moringa, Muringa, Sigru. Tiếng Ấn Độ : Sobhan jana. Tiếng Tamil: Murungai. Tiếng Thái: Ka naeng doeng, Ma khon kom, Ma rum (bean / pod), Phak i huem, Phak i hum, Phak nuea kai, Phak ma rum (leaves), Se cho ya. 7. Đặc điểm phân bố: Cây có nguồn gốc ở Ấn Độ, Arabia, châu Phi, vùng Viễn Tây châu Mỹ; được trồng và mọc tự nhiên ở vùng nhiệt đới châu Phi, nhiệt đới châu Mỹ, Sri Lanka, Ấn Độ, Mexico, Malabar, Malaysia và Philippines. Ở Việt Nam, từ lâu, cây đã được trồng ở Nha Trang, Phan Thiết, Phú Quốc. Gần đây, kiều bào ở Mỹ Trần Tiễn Khanh đã chuyển về Việt Nam 100 hạt giống, đã được phân phát cho một số nông dân ở Quảng Ngãi, Quảng Nam, Đà Nẵng. 8. Đặc điểm sinh thái: Cây có khả năng sống từ vùng Cận nhiệt đới khô đến ẩm cho đến vùng nhiệt đới rất khô đến vùng rừng ẩm. Chịu lượng mưa từ 480 - 4000 mm/năm, nhiệt độ 18,7 - 28,5oC và pH 4,5 - 8. Chịu được hạn và có thể sinh trưởng tốt trên đất cát khô 9. Nhân giống: Ở Ấn Độ, cây được nhân giống bằng cành 1 - 2 m. Thời vụ thích hợp từ tháng 5 - 8. Cây bắt đầu cho quả sau 6 - 8 tháng trồng. Quả được thu hoạch giữa tháng ba và tháng tư, sau đó thu lại một đợt nữa trong tháng 9 và tháng 10. 10. Tình hình sâu bệnh hại: Sâu bệnh hại thường gặp là Ruồi đục quả Gitona spp., các loài bọ cánh cứng hại lá cây con và cây chồi giâm hom như: Mylloceus discolor, M. viridanus, Ptochus ovulum, thực vật ký sinh Dendrophthoe flacata và các nấm hại bao gồm: Cercospora moringicola, Sphaceloma morindae, Puccinia moringae, Oidium sp., Polyporus gilvus. Như vậy, đối chiếu các tính năng thực vật học, sinh thái học và các thành tựu về dinh dưỡng học, y học, môi trường học, chúng tôi thấy rằng, đây là một loài cây đầy tiềm năng cho việc hỗ trợ sự phát triển cộng đồng nông thôn miền núi và vùng cát ven biển. Ở khu vực miền Trung Việt Nam nói chung và Thừa Thiên Huế nói riêng, cuộc sống của cư dân trên dải đất cát ven biển đang gặp nhiều khó khăn, do thường xuyên chịu ảnh hưởng của thiên tai và điều kiện khắc kiện của môi trường sống, rất cần phát triển những loài cây vạn năng thích hợp. Tôi nghĩ rằng, đã đến lúc nghĩ tới việc bố trí thử nghiệm các mô hình trồng cây đa tác dụng cho vùng cát ven biển và vùng cát nội đồng, mà cây chùm ngây là một đối tượng không thể bỏ qua, hầu giúp cư dân nơi đây có thêm một nguồn tài nguyên mới, hỗ trợ cho việc bảo vệ sức khỏe cộng đồng và cứu đói những lúc giáp hạt. *Lợi ích và công dụng : Chùm ngây là một trong những loài cây vô cùng hữu ích. Nó vừa cung cấp dinh dưỡng, vừa làm thuốc mà lại còn là nguyên liệu để sản xuất mỹ phẩm. Lá của cây chùm ngây được dùng làm rau. Nó có thể ăn sống như các loài rau sống khác. Cũng có thể nghiền lá ra để làm nước sinh tố. Nếu nấu canh thì ta được món canh giống với canh rau ngót. Người già, trẻ em và người có thể trạng yếu, nếu ăn rau chùm ngây sẽ rất mau khỏe. Cần chú ý, phụ nữ có thai không nên ăn chùm ngây vì có thể bị sẩy thai. Chùm ngây còn có tác dụng phòng và trị rất nhiều bệnh như: Ung thư, tiểu đường, thiếu máu, còi xương, bệnh tim mạch, ung loét, co giật, bệnh gan... Nó giúp ta hạ huyết áp và hạ cholesterol, chống oxy hóa... Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Tổ chức Nông lương Thế giới (FAO) đều đề cao cây chùm ngây, coi nó là cứu tinh cho người nghèo, đặc biệt ở các nước thuộc thế giới thứ 3... Và còn rất nhiều công dụng không thể ngờ tới của chùm ngây mời anh em thao khảo trên internet *Giá trị kinh tế [LIST] • lá non 1 kg từ 70.000 - 80.000 đồng • Rễ cây 20 năm tuổi 800 - 1000 000 đồng/kg • Bột lá khô :500 - 600 000 /kg

Saturday, September 28, 2013

137 THUỐC BẮC TRỊ TIỂU ĐƯỜNG

137 THUỐC BẮC TRỊ TIỂU ĐƯỜNG -Đản sâm 3 chỉ -Thục địa 3 chỉ -Táo nhân 3 chỉ -Bạch thược 3 chỉ -Bạch truật 3 chỉ -Gừng tươi 3 lát -Phục linh 3 chỉ -Hoành sơn 3 chỉ -Ngũ chi tử 3 chỉ -Sơn trà 3 chỉ -Bắc kỳ 3 chỉ -Nhãn nhục 2 chỉ -Nhục quế 2 chỉ -Viễn chi 2 chỉ -Hột sen 2 chỉ -Đường qui 2 chỉ -Khấu nhân 2 chỉ -Cam thảo 2 chỉ -Xuyên khung 2 chỉ -Trần bì 2 chỉ -Từ thạch 2 chỉ -Táo đỏ 5 trái. Tất cả sắc 3 chén còn lại 8 phân Nước nhì sắc 4 chén còn lại 8 phân 2 nước trước sau hòa chung chia 2 lần uống trong ngày-liên tục 2 tuần hoặc 4 tuần kết quả chắc chắn. Read more: http://news.tnn.vn/News/home/Nongthon/Caythuoc/2012/5/58D#ixzz2gC54vo7S

135 TOA THUỐC TRỊ NHIỀU CHỨNG BỆNH UNG THƯ,MÁU CAO,TIỂU ĐƯỜNG,MÁU CÓ MỠ, ĐAU GAN,SUY THẬN,NHIỆT

135 TOA THUỐC TRỊ NHIỀU CHỨNG BỆNH UNG THƯ,MÁU CAO,TIỂU ĐƯỜNG,MÁU CÓ MỠ, ĐAU GAN,SUY THẬN,NHIỆT V.V… -1 củ ngưu bán (các chở Tàu, Đại Hàn có bán) -1 củ cà rốt. -1 củ cải trắng,có nguyên cả củ cộng to. -1 nấm đông cô của Nhựt Bổn (loại có sọc trắng ngoài vỏ nấm,không phải loại nấm đen). Cách thức xử dụng: Nồi nấu thuốc loại thủy tinh có nắp đậy kín, không được loại kim khí.Tùy nồi lớn nhỏ mà sắc thuốc.Tất cả thuốc thái nhỏ 3 phần, thuốc 7 phần nước lọc-để lửa riu riu cháy nhỏ,nấu một giờ không cạn nước, để nguội vô bình cất tủ lạnh,uống ngày 4 lần, nửa chén ăn cơm sáng,trưa,chiều,tối khi bụng đói. Cữ uống các loại thuốc,thịt cá, tôm,cua và trứng;không uống rượu,hút thuốc, ăn đồ dầu mỡ xào,chiên nóng. Bệnh nhẹ thì từ bốn đến sáu tháng, còn bệnh nặng từ tám tháng đến một năm thì hết tuyệt. Read more: http://news.tnn.vn/News/home/Nongthon/Caythuoc/2012/5/58D#ixzz2gC4mmwBk

105 TRỊ BỆNH TIỂU ĐƯỜNG KINH NIÊN

105 TRỊ BỆNH TIỂU ĐƯỜNG KINH NIÊN Đậu đen mà lại ruột xanh Rang rồi tỏ nhuyễn để dành trong gô Múc chừng năm muỗng đổ vô Một ly nước uống quậy tan cho đều Mỗi khi khát nước uống vào Thơm ngon kỳ diệu tiểu đường giảm ngay Tiếp dùng phương pháp thứ hai Nhổ cây chó đẻ phơi khô nấu liền Khát nước thay uống liên miên Thời gian tiểu đường nó sẽ hết ngay Phương này kết quả nhiều người Tùy ai thích hạp bệnh căn dứt liền. 106-TRỊ TIỂU ĐƯỜNG ĐỘC PHƯƠNG Quế đắng lấy vỏ phơi khô Nấu sắc để uống thường xuyên hàng ngày Phương nầy cũng rất là hay Uống mà phù hợp lâu ngày dứt luôn. 107-TRỊ TIỂU ĐƯỜNG ĐA PHƯƠNG Phẩm chất đắng, chát,hoặc chua Khổ qua, vỏ cóc, ổi non lá già Chát,chua hay đắng uống qua Tùy theo cơ thể ai mà hạp theo Thời gian kết quả hết ngay Bền tâm chữa trị thật hay vô cùng. Read more: http://news.tnn.vn/News/home/Nongthon/Caythuoc/2012/5/58D#ixzz2gC48vVVk

97 TRỊ BỆNH TIỂU ĐƯỜNG

97 TRỊ BỆNH TIỂU ĐƯỜNG Củ su hào xay sống Lấy nước uống mỗi ngày Trị dứt bệnh đái đường Có người dùng kết quả Phương pháp rất là hay Nên mách bảo chỉ giùm Cho mọi người đều biết Là công đức vô biên Trị người bị tiểu đường Cây chó đẻ trị tiểu đường hay lắm Nhổ phơi khô nấu sắc uống thường xuyên Ai hợp thì tiểu đường lại hết liền Đã kết quả nhiều người là sự thật. Read more: http://news.tnn.vn/News/home/Nongthon/Caythuoc/2012/5/58D#ixzz2gC27tNcu

86 TRỊ CAO MÁU VÀ TIỂU ĐƯỜNG

86 TRỊ CAO MÁU VÀ TIỂU ĐƯỜNG Cây vú sữa,trái thường dùng ngon lắm Cạo lấy da,phơi sắc uống hằng ngày Trị tiểu đường,có nhiều vị hết ngay Còn lấy lá,sắc uống trừ cao máu Tùy chứng bệnh, thuốc thì hết ráo Bằng không thì,cây mắc cỡ,ngà voi Cùng với cây ké đầu ngựa hợp vào Cây chó đẻ,bốn thứ hòa chung sắc Lấy nước uống hằng ngày tôi tin chắc Một thời gian,tiểu đường sẽ hết ngay Và siêng năng,ráng đi bộ hằng ngày Thường vận động, đi một hai cây số Bệnh cao máu,tiểu đường dù hết tuyệt Có nhiều ngươì, uống kết quả thành công Toa thuốc nầy,hãy ghi nhớ nằm lòng Hầu mách giúp cho kẻ đau làm phước. Read more: http://news.tnn.vn/News/home/Nongthon/Caythuoc/2012/5/58D#ixzz2gC1fZRC7

59 TRỊ BỆNH TIỂU ĐƯỜNG THÂM NIÊN

59 TRỊ BỆNH TIỂU ĐƯỜNG THÂM NIÊN Bệnh tiểu đường,bị nhiều năm khó trị Phương pháp nầy,rất đơn giản mà hay Quý bà con, ghi nhớ thuốc tháng nay Đã uống hết, được nhiều người nói lại. Lá bơ tươi,trên cây vừa mới hái Để vào nồi, đổ nước chụm riu riu Cạn nửa phần, cho nguội rót vào hình Để tủ lạnh,uống sáng trưa chiều tối Khi khát uống,mùi thơm ngon tuyệt đối Trải thời gian, tiểu đường hết không hay Xin bà con,giùm mách bảo phương nầy Hầu giúp đỡ người tiểu đường quí lắm. Read more: http://news.tnn.vn/News/home/Nongthon/Caythuoc/2012/5/58D#ixzz2gC0SMzhw

Thuốc Nam trị đái đường

Thuốc Nam trị đái đường: 1. Phát tiêu (Sulfate de Soude), uống 1-2 ngày đầu, mỗi lần chừng 1 muỗng cà phê, cho xổ sạch. Rồi lấy trái đu đủ chín ương ương, não nhỏ(bỏ vỏ), đàn vào dĩa lớn, rắc đường phơi sương 1 ngày 1 đêm. Ăn tới khỏi. Rất hay.(Thuốc dân gian) 2. Trứng gà tốt, có trống, bỏ vào ly đổ dấm ngập(Được dấm thanh thì hay hơn), ngâm 1 đến 2 ngày, bóc vỏ ăn hết, ăn độ 5-6 ngày là hết bệnh. Thần hiệu. 3. Hai lá lách heo bỏ màng mỏng ngoài, rửa sạch hầm chung với nước râu bắp cho chín kỹ. Ăn cả cái lẫn nước(râu bắp 1 nắm nấu kỹ bỏ bã, lấy nước nấu lá lách). Ăn mấy ngày, đo độ đường, nếu thấy xuống bình thường thì ngưng ăn, kẻo xuống thấp quá. 4. Tầm gửi cây giâu, nhai nuốt mỗi lần 7 búp (đàn ông) hay 9 búp (đàn bà) 5. Hạt me chua, sao vàng úp xuống đất, làm 3 lần như vậy. Sắc uống. 6. Bông mã đề hái phơi trong râm cho khô, sắc uống như trà. 7. Dứa gọt bỏ lõi, bỏ lá lách heo vào trong, nấu cách thủy, xay ăn độ ¾ trái. 8. Giây mướp đắng phơi khô trong râm, (Sao vàng hạ thổ). Sắc uống 9. Hạt kê (svht) nấu ăn 10. Nấm Linh chi 1 chỉ - Tam thất 1 chỉ - Qui Đông 4 chỉ rưỡi. Nấu 15 phút, uống thay trà, khi nào thấy độ đường xuống trung bình thì thôi(Một người cho Cha Đỗ Bá Công) 11. Khế thái mỏng phơi khô(trong râm), sáng nấu một bốc, với nửa lít nước, uống cả ngày. Sau 3 tháng độ đường xuống bình thường, có ăn ngọt cũng không lên độ(một ông ở Houston cho LM Linh Uy) 12. Cải soong, củ cải, cần tây, mùi tây, tía tô, cà rốt, cả bắp, xay ép lấy nước uống. 13. Lá cây hồng ăn trái, phơi trong râm, nấu nước uống thay nước trà. 14. Gạo nếp, gạo tẻ đều 50g, nấu cháo nhừ, củ cải, gọt vỏ, xay nát, thêm gia vị bỏ vô chảo nấu sôi, ăn 2 lần trong ngày. Ăn 3 ngày. 15. Đậu xanh bỏ vỏ 100g nấu nhừ, bí đao bỏ vỏ 200g, xay nát, thêm gia vị, bỏ vô chảo nấu sôi, ăn nóng, lúc đói, 1 lần trong ngày. Ăn 3 ngày liền. 16. Dứa 1 quả (gần chín) độ 500g. Khoét núm, bỏ lõi đi, bỏ 10g phèn chua vô trong, đậy nắp lại, lấy tăm ghim chặt. Nướng trên than củi, khi nào vỏ cháy xám, nạo ruột cho bệnh nhân ăn, 1 lần trong ngày. Ăn 3 ngày liền. 17. Đu đủ gần chín, 1 gủa độ 300g, gọt vỏ, khoét núm, bỏ hạt, bỏ đường phèn 30g vô trong, ghim nắp lại, chưng chín, ăn 1 lần trong ngày. Ăn 3 ngày liền. (Từ số 13 đến số 17, lấy của DS.Lê Đinh Bích) 18. Táo đỏ 7 quả, kén tằm (còn con nhộng) 7 tổ. ninh nhừ, uống nước. Uống 2 ngày hết bệnh. 19. Cuống rau muống 60g, râu ngô 30g. Rửa sạch nấu nước uống. 20. Củ cải tươi, bỏ vỏ, 250g, nấu với cá muối khô 25g. Cách ngày ăn 1 lần. 21. Rau cần 500g. Rửa sạch xay, lọc nước đun lên uống. 22. Lá lách heo 1 bộ, rửa sạch, rửa sạch thái nấu chín(không bỏ muối), đập vào 3 quả trứng gà (có trống) với 60g củ cải cúc, nấu sôi, ăn cả nước và cái, ngày 1 lần. 23. Lá lách heo 1 bộ, hạt bo bo 60g. Nấu ăn 1 lần trong ngày. 24. Đậu đũa luộc ăn lạt. (Từ số 18-24 trích ở 1500 bài thuốc dân gian. Ts. Hồng minh Viễn …) 25. Vỏ con sam(đốt cháy) 5 chỉ. Cây vú sữa (Sao vàng) 5 chỉ. Nấu uống hằng ngày thay trà. Rất công hiệu. ban Y Tế Cần Thơ cung cấp. 26. Hoài Sơn – Phòng đảng sâm – Chích cam thảo – Chích huỳnh kỳ - Sanh bạch truật – Cát Căn; đều 5 chỉ. Sắc 6 chén còn 3 chén, uống 3 lần. (Đỗ Phong Thuần) 27. Hoài sơn 5 chỉ -Phong đảng sâm 5 chỉ - Chích huỳnh kỳ 4 chỉ - bạch truật 4 chỉ - thăng ma 3 chỉ - Cát căn (nướng) 3 chỉ- Vỏ biển đậu 3 chỉ - Chích cam thảo 3 chỉ. Sắc 8 chén còn 3 chén, uống 3 lần (Đỗ P.Thuần) 28. Gà giò bằng 2 vốc tay làm sạch, chanh thái mỏng phủ kín gà. Chưng cách thủy khi chín ăn cả gà và chanh (Ô. Hiệp W.Falls) 29. Nước thân cây chuối tiêu Mỗi buổi sáng lấy dao chặt ngang cây chuối, khoét bỏ 1 khúc lõi trong thân, dài khoảng 10cm, dùng 1 bao ny lông sạch bịt chỗ mới cắt cho khỏi bụi. Nửa giờ sau, hút nước chỗ lõi cây chuối chảy ra, được độ trên nửa chén. Uống hết 1 lần. Bài thuốc này, L.Y. Hoàng Duy tân đã chữa cho bà Ng.T.K. ở Mỹ về thăm VN, bà bị máu cao và tiểu đường trên 15 năm, phải uống thuốc tây hằng ngày. Sau khi dùng bài thuốc trên 3 ngày, độ đường và máu xuống gần bình thường, qua 1 tuần, xuống trung bình. Uống liên tiếp 1 tháng, bệnh đã chấm dứt. Về Mỹ đi đo độ lại, tất cả đều tốt, mặc dầu đã trên 1 tháng không còn uống thuốc tây. CƯỚC CHÚ: Hầu hết các thuốc trị tiểu đường, cũng trị cả bệnh máu cao và cholesterol nữa. http://www.taberd75.com/linh%20tinh/sachthuocgiatruyen.htm

Các bài thuốc chữa bệnh tiểu đường

Các bài thuốc chữa bệnh tiểu đường Bài 1: Mật nhân ổi chát trị tiểu đường Cỏ hú, hột me cũng diệu phương Vỏ cóc phơi khô siêng nấu uống Cỏ me, cỏ sữa, trái cau tưoi Hoặc là vỏ bưởi đem nấu uống Lá cóc, trái me, trái ổi non Đắng chát hay chua phương diệu dược Bông dừa đệ nhất trị tiểu đường (Bông dừa trồng kiểng chặt cây hay lá rễ phơi khô, sao khử thổ sắc uống) Bài 2: Thuốc cứu một nắm còn tươi Đâm để chút muối uống vào rất hay Mỗi ngày uống một hai lần Một vài đôi tháng hết dần bệnh ngay Mách giùm tấy cả ai ai Nhớ đâm thuốc cứu uống hay vô cùng Bài 3: Bệnh tiểu đường, bị nhiều năm khó trị Phương pháp này đơn giản mà hay Quý bà con ghi nhớ thuốc thang này Đã uống hết được nhiều người nói lại Lá bơ tươi trên cây vừa mới hái Để vào nồi đổ nước chụm riu riu Cạn nửa phần cho nguội rót vào bình Để tủ lạnh uống sáng trưa chiều tối Khi khát uống mủi thơm ngon tuyệt đối Trải thời gian, tiểu đường hết không hay Xin bà con giùm mách bảo phương này Hầu giúp đỡ người tiểu đường quý lắm http://thietbiytevp.vn/chi-tiet-tin-tuc/tin-noi-bat/cac-bai-thuoc-chua-benh-tieu-duong388668.html

48 TRỊ TIỂU ĐƯỜNG,MÁU CAO,MÁU CÓ MỠ

48 TRỊ TIỂU ĐƯỜNG,MÁU CAO,MÁU CÓ MỠ Thuốc cứu một nắm còn tươi Đâm để chút muối uống vào rất hay Mỗi ngày uống một hai lần Một vài đôi tháng hết dần bệnh ngay Mách giùm tất cả ai ai Nhớ đâm thuốc cứu uống hay vô cùng Read more: http://news.tnn.vn/News/home/Nongthon/Caythuoc/2012/5/58D#ixzz2gBs5m2DU

40 BỊ TIỂU ĐƯỜNG CHÂN NHIỄM TRÙNG LÀM MỦ

40 BỊ TIỂU ĐƯỜNG CHÂN NHIỄM TRÙNG LÀM MỦ Nên đừng cưa phải điều trị như sau: Nha đam,lô hội đâm ra Băng vào nó rút khô qua mỗi ngày Nước muối nấu rửa thật hay Thuốc dán con rắn thoa ngay giảm liền Bền lòng thoa xức thường xuyên Rút mủ khô mặt bớt liền một khi Thuốc rê,trầu với trần bì Phèn chua một cục nấu thì rửa xông Nha đam đâm đắp ngoài trong Vết thương lần hết, ước mong toại nguyền Khỏi lo cưa cắt tốn tiền Là phương diệu dược thuốc tiên tại trần Trong khi chữa trị ân cần Cữ đường,uống ổi,hoặc cần,dứa gai[10] Mật nhân,cái cóc,hạt me Khổ qua (mướp đắng) dây lá, hoặc là trái khô Nấu uống giảm bớt hạ đường Hợp thì hết dứt, hay là giảm thuyên Kẻ hạp thì lại hết liền Khỏi cưa, khỏi cắt tốn tiền bệnh nhân. Read more: http://news.tnn.vn/News/home/Nongthon/Caythuoc/2012/5/58D#ixzz2gBra9dtR

15 TRỊ TIỂU ĐƯỜNG THUỐC NGOẠI KHOA

15 TRỊ TIỂU ĐƯỜNG THUỐC NGOẠI KHOA Mật nhân ổi chát trị tiểu đường Cỏ cú, hột me cũng diệu phương Vỏ cóc phơi khô siêng nấu uống Cỏ me, cỏ sữa,trái cao tươi Hoặc là vỏ bưởi đem nấu uống Lá cóc, lá me, trái ổi non Đắng chát hay chua phương diệu dược Bông dừa đệ nhất trị tiểu đường[2] Read more: http://news.tnn.vn/News/home/Nongthon/Caythuoc/2012/5/58D#ixzz2gBprdc53

2 toa thuốc trị Tiểu Đường

2 toa thuốc trị Tiểu Đường Lời dặn: Quý vị nên theo dõi số lượng nước lá dứa uống mỗi lần và nên đo lượng đường thường xuyên trong giai đoạn mới uống lá dứa, như vậy bạn có thể gia giảm số lượng nước lá dứa theo căn bệnh của mình, và tránh đừng để lượng đường xuống thấp quá, nhất là lúc đang lái xe, đang tắm, đang ngủ, sẽ rất nguy hiểm. Nên mang theo kẹo ngọt, nước ngọt trong túi để ăn ngay khi bị xuống đường. Hạn chế hoặc tránh uống lá dứa vào buổi chiều tối, để tránh bị đường xuống thấp vào ban đêm lúc đang ngủ. Nên ăn nhiều bữa trong ngày, khoảng 4 tiếng cho mỗi buổi ăn chính và 2 tiếng cho bữa ăn vặt, phụ trội, nên ăn các rau xanh và xu hào, bắp cải, bí, đậu đũa, xúp lơ, trái bơ (avocado), có thể ăn mì sợi vàng, miến làm từ đậu xanh, bánh mì nâu toàn phần (wholewheat). gạo lức (gạo nâu) Tránh ăn các trái cây ngọt như: mít, chuối, xoài, hồng chín, mãng cầu... Tránh ăn thức ăn tinh bột trắng như: cơm trắng, bún trắng, bánh mì trắng ================= 1. Toa thuốc 1 Uống Lá Dứa - Tin Vui Mới 5-12-2007 Sau 3 năm uống Tim Sen, sự hiệu nghiệm của Tim Sen giảm dần, tôi phải uống trở lại thuốc tây ! ! Sau 3 năm uống Tim Sen, sự hiệu nghiệm của Tim Sen giảm dần, tôi phải uống trở lại thuốc tây ! ! Một sự tình cờ, TRỜI đă ban cho gia tộc chúng tôi ! Người em gái thứ 5 lúc về Việt Nam, mang Lá Dứa qua Tây Đức để làm bánh. Nhưng không làm, lại tiếc của, lấy lá Dứa đem phơi khô nhưng còn thấy màu xanh, nấu nước uống cho thơm, nào ngờ đâu đo thử Đường lại quá tốt, tốt chưa từng thấy ! Em Năm báo cho Em Sáu của tôi biết sự việc đă xảy ra như thế. Em Sáu bắt đầu dùng Lá Dứa và Kết Quả quá tốt . Trước đó phải chích Insulin, bây giờ không cần chích Insulin nữa và có thể ăn cơm nhiều hơn trước. Được tin tốt ấy, tôi bắt đầu uống Lá Dứa và bỏ thuốc tây . Tôi cũng đạt được kết quả Tuyệt Vời . Theo sự hướng dẫn của tôi, bà Trần Vũ Bản vừa báo cho tôi là bà uống Lá Dứa cũng đạt kết quả tốt. Lá Dứa là loại lá có mùi thơm khi bỏ vào cơm hay chè. Lá Dứa mua về rửa sạch đem phơi khô nhưng vẫn còn thấy màu xanh. Mỗi lần nấu chừng 10 lá Dứa, cắt nhỏ ra, với 2.5 lít nước, khi thấy còn lại chừng 2 lít là có thể dùng được. Với 2 lít nước lá Dứa nầy uống hết trong 1 ngày. Uống trước mỗi bữa ăn chừng 20 phút. Nếu 1 ngày ăn 3 lần th́ mỗi lần uống 0.7 lít nước lá Dứa. Uống 1 tuần lễ mới bắt đầu có kết quả. Tất cả 10 anh em trong gia đình chúng tôi uống Lá Dứa đều đạt được kết quả TỐT . Chúc các bạn có bệnh Tiểu Đường uống lá Dứa có Kết Quả TỐT. Uống Lá Dứa là quan trọng, NHƯNG kiêng cử trong ăn uống còn quan trọng hơn nhiều. Một điều quan trọng nữa là Tập Thể Dục. Mỗi ngày nên tập thể dục nhẹ khoảng 30 phút thí dụ như đi bộ hay chạy bộ. Khi có Kết Quả Tốt, Xin Thông Báo cho tôi rất Cám Ơn . KT61 Nguyễn Văn Bảnh 259 Westmoreland Ave, Toronto, Ontario, CANADA Tel: 416-533-6757 Email: mailto:nguyen6757@ rogers.com ----------------------------------------------------------------------------------------------------------- 2. Toa thuốc 2 Nhân chuyến đi Canada vào cuối tháng 4 vừa qua. Tôi có ghé Seattle ở lại Thiền Viện Minh Chánh một đêm, tôi đã được gặp thầy Kiên Tánh . Thầy nói chuyện lúc trước Thầy bị đường nặng ghê lắm có khi đo lên tới 1,200 phải chích Insulin ngày 2 lần, sau đó Thầy được người ta chỉ cho phương cách này . Thầy theo đó và bây giờ Thầy không phải uống thuốc nữa mà có khi đường xuống chỉ còn dưới 50 nên lúc nào, đi đâu Thầy cũng phải mang kẹo theo . Vật liệu : - Hột hạnh nhân (ALMOND) của Tàu có bán ở các chợ Tàu và Việt Nam. Có 2 loại một loại gọi là BẮC và một loại gọi là NAM. Loại BẮC ăn thì đắng (bitter), loại NAM thì bình thường. Công thức như sau : 1 - mua một gói 6 oz loại BẮC - Đại Bắc Hạnh Nhân 大 北 杏 仁 2 - mua 2 gói mổi gói 6 oz loại NAM - Trung Nam Hạnh 中 南 杏 Cách làm : Đem 2 loại BẮC và NAM trộn chung lại với nhau cho đều, rồi cho vào nồi với một lít nước nấu kỷ, rồi đem ăn vào mổi bữa cơm như ăn canh. Ăn cả nước lẫn cái . Một công thức chia ra làm 4 năm lần nấu. Tôi đã thử ngay sau khi tôi đi chơi về. Nhưng có một cái trở ngại là khi ra chợ Việt Nam tôi chỉ thấy bán có một loại thôi . Thầy dặn tôi ra chợ mua thì rẽ hơn nên tôi làm theo nhưng khi ra chợ thi chỉ có một loại mình không biết cái nào gọi là BẮC cái nào gọi là NAM nen tôi trở về tiệm thuốc Bắc quen ở gần nhà. Tôi hỏi mua thi có liền và ông chủ tiệm giải thích cho tôi là Bắc thi đắng Nam thi không đắng. Giá cũng rẻ lắm chỉ có $4.50 USD một pound thôi.Tôi liền mua cho 3 phần một lúc. Tôi nói ông cần mổi phần 1 gói 6 oz Bắc và 12 oz Nam. Tôi đem về nấu liền, uống thì hơi đắng như mình ăn trái hủ qua vậy đó. Nhưng còn cái hột thì nó cứng lắm chứ không nhừ ra như hạt sen. Hôm sau tôi cho vào máy xay sinh tố xay ra nhưng ăn cũng không trôi. Tôi liền nhớ ra hôm cô bán hàng lúc cân cho tôi cô nói với tôi là có 2 vợ chồng người Mỹ mổi lần họ tới là mua 5 pound một lần và cứ ăn sống như vậy . Tôi hỏi cô ta họ có nói ăn để chửa gì không ? Cô ta nói họ nói ăn để chữa cancer thế là tôi bắt chước theo, từ hôm đó mổi ngày tôi nhai ăn sống. Sáng một muỗng canh, chiều một muỗng canh thay vì tôi nấu. Nếu muốn xuống nhanh thi ăn nhiều hơn lên, nhưng tôi ăn từ từ sợ ăn nhiều một lúc đường xuống nhiều quá cũng dễ bị trở ngại . Kết quả : một tuần này tôi đo đường sáng nào cũng dưới 100 mặc dù bữa cơm chiều tôi ăn tới 2 chén cơm, thêm mổi ngày ăn 2 ly sữa chua mổi ly 8 oz . Thuốc thì bớt đi nữa viên mổi ngày, nếu đường đo xuống thì sẽ từ từ bớt thuốc . Lúc tôi chưa ăn hạnh nhân thì tôi uống đủ thuốc, không dám ăn cơm, không ăn ngọt mà đo đường lúc nào cũng ở mức từ 120 đến 150. Bạn nào có bị tiểu đường thì hảy thử đi . Không đắt tiền mà cũng dễ dàng xử dụng. Không nhai được thì cứ nấu rồi uống nước như canh theo Thầy nói. HL "TUYEN Tran" 3. Thêm Toa thuốc trị tiểu đường bằng rau má Thêm Toa thuốc rau má trị tiểu đường, Có nhiều vị mách bảo dùng rau má tươi xay ra uống (uống không, không bỏ đường), mỗi ngày hai hoặc ba ly. Tùy bịnh nặng hay nhẹ, nên điều chỉnh số lượng uống mỗi ngày cho thích hợp. Rất hiệu quả, www.QuanTheAmBoTat.com http://www.quantheambotat.com/FolderChuaBinh/2ToaThuocTriTieuDuong.htm

Friday, September 27, 2013

Tách hoạt tính hạ glucose từ lá xakê, vỏ măng cụt

60-TRỊ TIỂU ĐƯỜNG LÀM BẠI XỤI Lá sa kê, đem về mà sắc uống Trị tiểu đường,bại xụi thật là hay Đã nhiều người, nấu nước uống cách nầy Được lành mạnh,mách bảo tôi được biết Phương diệu dược thần y không kể xiết Trúng hết liền, đâu cần phải nhiều tiền Tùy mỗi ngưòi,hợp tỳ vị,cơ duyên Thuốc đơn giản,mà trị nhiều bệnh dứt. Với niềm tin,thuốc uống vào hay thực Nhờ Phật trời, thần thánh độ dứt mau Phải chí tâm,kiên nhẫn uống thuốc vào Nhiều người hết, biết đâu mình cũng hết. Read more: http://news.tnn.vn/News/home/Nongthon/Caythuoc/2012/5/58D#ixzz2gC0sPj00 Tách hoạt tính hạ glucose từ lá xakê, vỏ măng cụt Cập nhật lúc 13h51' ngày 20/09/2013 Share on facebook More Sharing Services Xem thêm: lá xakê, vỏ măng cụt, chất chống oxy hóa, chế phẩm điều trị tiểu đường, chế phẩm điều trị cao huyết áp, hoạt chất trong vỏ quả măng cụt, hoạt chất trong lá xakê, phó giáo sư trần thu hương Sau 12 tháng, nhóm nghiên cứu trẻ thuộc Bộ môn Hóa hữu cơ, Viện Kỹ thuật Hóa học đã nghiên cứu thành công quy trình chiết tách, phân lập một số hợp chất có hoạt tính sinh học (chống oxy hóa, hạ glucose máu…) từ lá cây xakê và vỏ quả măng cụt ở quy mô phòng thí nghiệm. Đề tài khoa học và công nghệ tiềm năng “Nghiên cứu quy trình chiết, tách phân đoạn có hoạt tính sinh học từ cây xakê và cây măng cụt” được Bộ Khoa học và Công nghệ tài trợ nhằm nghiên cứu với mục tiêu tạo ra các chế phẩm hỗ trợ điều trị các bệnh tiểu đường và cao huyết áp. Phó Giáo sư, Tiến sỹ Trần Thu Hương, Chủ nhiệm đề tài khoa học cho biết, trong quá trình thực hiện đề tài, nhóm đã thu thập các mẫu dược liệu, giám định tên khoa học; sử dụng kết hợp các phương pháp chiết xuất truyền thống và hiện đại, tạo các dịch chiết phục vụ cho nghiên cứu hóa học và sinh học; nghiên cứu phân lập các hợp chất có hoạt tính sinh học từ lá cây xakê và vỏ quả măng cụt. Nhóm đã xác định cấu trúc hóa học của các hợp chất được phân lập bằng phương pháp vật lý hiện đại; đánh giá hoạt tính sinh học của mẫu dịch chiết và các hoạt chất theo hướng có hoạt tính chống oxy hóa, hạ glucose máu… Bằng việc kết hợp các phương pháp sắc ký và phổ quang hiện đại, đề tài đã nghiên cứu phân lập và xác định được cấu trúc của 17 hợp chất, trong đó có 2 hợp chất mới từ lá cây xakê và vỏ quả măng cụt. Tách hoạt tính hạ glucose từ lá xakê, vỏ măng cụt Ảnh: internet Công nghệ mà nhóm nghiên cứu xây dựng tích hợp nhiều phương pháp hóa học-sinh học-vật lý-dược học hiện đại. Với quy trình công nghệ này, từ lá khô của cây xakê, nhóm nghiên cứu đã phân lập được 9 hợp chất, trong đó có một hợp chất mới lần đầu tiên được phân lập từ lá cây xakê tại Việt Nam. Các kết quả thử hoạt tính cho thấy, dịch chiết cũng như các hợp chất phân lập được từ lá cây xakê có tác dụng chống oxy hóa tốt, ức chế được các enzyme liên quan đến sự chuyển hóa glucose gây bệnh tiểu đường. Từ vỏ quả măng cụt, nhóm nghiên cứu cũng đã phân lập được 8 hợp chất, trong đó có một hợp chất mới lần đầu tiên được phân lập. Các hợp chất này có khả năng ức chế enzyme α-glucosidase và α- amylase tương đối mạnh, trong đó gartanin có hoạt tính ức chế α-glucosidase mạnh nhất. Các dịch chiết thu được từ hai nguồn nguyên liệu trên đã được thử nghiệm in vivo trên giống chuột thuần chủng BALB/c (loài chuột chuyên dùng để thử nghiệm khả năng miễn dịch). Kết quả cho thấy các dịch chiết này có tác dụng khả quan trong việc hỗ trợ điều trị bệnh tiểu đường. “Một điểm nổi bật nữa của đề tài là nhóm nghiên cứu trẻ đã nghiên cứu, chế tạo thành công vật liệu γ nhôm oxit có kích thước lỗ xốp vào khoảng 6-10nm, chứa nhiều nhóm –OH trên bề mặt với số lượng lớn các tâm axit yếu và trung bình, có độ bền cơ cao, bền với các dung môi dùng trong quá trình triết, tách và có khả năng tái sinh tốt, đáp ứng yêu cầu hấp phụ chọn lọc các hợp chất có hoạt tính sinh học. Đây là vật liệu tốt để sử dụng trong quá trình phân lập lượng lớn các hợp chất thiên nhiên hướng tới quy trình công nghệ quy mô công nghiệp với giá thành thấp”, Phó Giáo sư, Tiến sỹ Trần Thu Hương chia sẻ. Theo Phó Giáo sư, Tiến sỹ Trần Thu Hương, bước đầu đề tài đã đạt được kết quả nhất định về việc phân lập các hợp chất và tìm kiếm các chất có hoạt tính sinh học (kháng vi sinh vật, chống oxy hóa hạ đường huyết…) từ lá cây xakê và vỏ quả măng cụt - nguồn nguyên liệu phong phú, sẵn có ở nhiều tỉnh, thành phố Việt Nam. Tuy nhiên, Phó Giáo sư, Tiến sỹ Trần Thu Hương cũng bày tỏ mong muốn: "Để có thể ứng dụng các kết quả nghiên cứu này vào thực tiễn, cần mở rộng việc nghiên cứu thành phần hóa học theo từng địa điểm và thời điểm thu thập mẫu. Bên cạnh mở rộng khảo sát hoạt tính hạ đường huyết, các hoạt tính sinh học khác của các loài cây này cũng cần được đầu tư theo hướng nghiên cứu chuyên sâu hơn, nâng cấp công nghệ với quy mô lớn hơn để sớm đưa kết quả nghiên cứu vào ứng dụng thực tế". http://www.khoahoc.com.vn/doisong/ung-dung/49137_Tach-hoat-tinh-ha-glucose-tu-la-xake-vo-mang-cut.aspx

Sunday, June 2, 2013

Moringa Powder l Bột Chùm ngây

Moringa Powder l Bột Chùm ngây http://moringa-oleifera.uni.me/?p=23

Cây Chùm ngây Moringa pterygosperma Gaertn.

Cây Chùm ngây Moringa pterygosperma Gaertn. http://duocthaothucdung.blogspot.com/2013/01/cay-chum-ngay-malunggay.html

Discovery Channel documentary Moringa - The Miracle Tree

Discovery Channel documentary Moringa - The Miracle Tree http://www.youtube.com/watch?v=Cqwk9KFLTI0

Bán Hạt chùm ngây - Moringa Seed

Bán Hạt chùm ngây - Moringa Seed http://ban-hat-chum-ngay-moringa-seed-vn.blogspot.com/

cây chùm ngây vị thuốc quí

cây chùm ngây vị thuốc quí Chùm ngây: loài cây vạn năng cho vùng sinh thái khắc nghiệt Cây chùm ngây còn được gọi là "cây phép mầu", "cây thần diệu", hay "cây phép lạ", bắt nguồn từ tên tiếng Anh là "Miracle tree". Thật vậy, đây là một loài cây đa tác dụng hay nói cách khác là cây vạn năng (multipurpose tree), vì ở nhiều nơi trên thế giới, nhất là các vùng đang phát triển ở châu Á và châu Phi, nó được xem tài nguyên vô giá, chống nạn thiếu dinh dưỡng, Thông tin chi tiết về cây chùm ngây bảo vệ sức khỏe cộng đồng và phòng hộ giảm nhẹ thiên tai. Ngoài khả năng cung cấp chất dinh dưỡng, các bộ phận của cây chùm ngây còn có dược tính phổ rộng, được dùng để điều trị rất nhiều bệnh khác nhau. Chính nền y học cổ truyền của Ấn Độ cũng đã xác định được 300 bệnh khác nhau được điều trị bằng lá của cây này. 1. Về dinh dưỡng học: cây chùm ngây đã thể hiện được rằng, hầu hết các bộ phận sống của nó có chứa đủ các thành phần dinh dưỡng, có thể giúp ích cho sự sống của con người và động vật. 1.1. Lá cây được dùng làm rau ăn (lá, chồi, cành non và cả cây con được dùng trộn dầu dấm ăn thay rau diếp), làm bột cà-ri, ủ chua làm gia vị, làm trà giải khát... Ở châu Phi, nó được dùng để chống suy dinh dưỡng cho trẻ con. Lá chùm ngây chứa nhiều vitamin và muối khoáng có ích, với hàm lượng rất cao: vitamin C cao gấp 7 lần trong cam, provitamin A cao gấp 4 lần trong cà-rốt, calcium cao gấp 4 lần trong sữa, potassium cao gấp 3 lần trong chuối, sắt cao gấp 3 lần trong rau diếp, và ngay cả protein cũng cao gấp 2 lần trong sữa. Ngoài ra, nó còn chứa nhiều vitamin B, các acid amin có lưu huỳnh như methionin, cystein và nhiều acid amin cần thiết khác. Do vậy, lá chùm ngây được xem là một trong những nguồn dinh dưỡng thực vật có giá trị cao. Trong 100 g bột lá sấy khô có: calori 205, protein (g) 27,1, chất béo (g) 2,3, carbohydrate (g) 38,2, chất xơ (g) 19,2, Ca (mg) 2,003, Mg (mg) 368, P (mg) 204, K (mg) 1,324, Cu (mg) 0,57, Fe (mg) 28,2, S (mg) 870, acid oxalic (mg) 1,6%, vitamin A-β carotene (mg) 16,3, vitamin B1 - thiamin (mg) 2,64, vitamin B2 - riboflavin (mg) 20,5, vitamin B3 - nicotinic acid (mg) 8,2, vitamin C - ascorbic acid (mg) 17,3, vitamin E - tocopherol acetate (mg) 113, arginin (g/16gN) 1,33%, histidin (g/16gN) 0,61%, lysin (g/16gN) 1,32%, tryptophan (g/16gN) 0,43%, phenylanaline (g/16gN) 1,39%, methionine (g/16gN) 0,35%, threonine (g/16gN) 1,19%, leucine (g/16gN) 1,95%, isoleucine (g/16gN) 0,83%, valine (g/16gN) 1,06%. 1.2. Bông chùm ngây có thể dùng để làm rau ăn hoặc làm trà (nhiều nước Tây phương sản xuất trà hoa chùm ngây bán ngoài thị trường), cung cấp tốt nguồn muối khoáng calcium và potassium. Nó cũng là nguồn cung cấp nguyên liệu rất tốt cho người nuôi ong. Quả non của nó có thể chiên xào để ăn với hương vị như măng tây. 1.3. Hạt chùm ngây chứa nhiều dầu, lượng dầu chiếm đến 30 - 40% trọng lượng hạt, có nơi trồng chùm ngây ép dầu, năng suất dầu đạt 10 tấn / ha. Dầu hạt chùm ngây chứa 65,7% acid oleic, 9,3% acid palmitic, 7,4% acid stearic và 8,6% acid behenic. Ở Malaysia, hạt chùm ngây được dùng để ăn như đậu phụng. Dầu chùm ngây ăn được, và còn được dùng bôi trơn máy móc, máy đồng hồ, dùng cho công nghệ mỹ phẩm, xà phòng, dùng để chải tóc. Dầu chùm ngây được bán ở thị trường dưới tên gọi tiếng Anh là ben-oil. Chính vì thế cây chùm ngây có tên là "Ben-oil tree". 1.4. Các đoạn rễ non được dùng làm rau thay cho cải ngựa. Cải ngựa là một loài rau diếp với tên khoa học là Armoracia rusticana = Cochlearia armoracia, tên tiếng Anh là Horseradish, vì thế cây chùm ngây còn có tên tiếng Anh là "Horsradish tree" và cũng từ đó người Việt còn gọi nó là "cây cải ngựa". 2. Về y học: nhiều bộ phận của cơ thể cây chùm ngây đã được dùng làm thuốc chữa nhiều bệnh khác nhau. 2.1. Lá, hoa và rễ được dùng trong y học cộng đồng, 1/ chữa trị các khối u. 2/ Lá dùng uống để điều trị chứng hạ huyết áp và 3/vò xát vào vùng thái dương để trị chứng nhức đầu. Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy rằng, 4/ lá chùm ngây có tính chất như một kháng sinh chống các viêm nhiễm nhỏ. 5/ Theo Hartwell, hoa, lá, và rễ còn được dùng trị sưng tấy; 6/còn hạt dùng trị trướng bụng. 7/ Lá còn được dùng để điều trị các vết cắt ở da, vết trầy sướt, sưng tấy, nổi mẩn ngứa hay các dấu hiệu của lão hóa da. 8/ Dịch chiết từ lá có tác dụng duy trì ổn định huyết áp, trị chứng bần thần, chống nhiễm trùng da. 9/Nó cũng được dùng để điều khiển lượng đường máu trong trường hợp bị bệnh tiểu đường. Dịch chiết từ lá có thêm nước cà-rốt là một thức uống lợi tiểu. Bột làm từ lá tươi có khả năng cung cấp năng lượng làm cho năng lượng tăng gấp bội khi dùng thường xuyên. 10/Lá cũng được dùng chữa sốt, viêm phế quản, viêm nhiễm mắt và tai, viêm màng cơ, 11/diệt giun sán và làm thuốc tẩy xổ. 12/ Sản phụ ăn lá sẽ làm tăng tiết sữa. Ở Philippines lá được chỉ định dùng chống thiếu máu, do chứa lượng sắt cao. 13/ Hạt điều trị bệnh viêm dạ dày. Dầu hạt được dùng ngoài để điều trị nấm da. Trường Đại học San Carlos ở Guatemala đã tìm ra một loại kháng sinh có tác dụng như neomycin có khả năng bảo vệ da khỏi sự viêm nhiễm do Staphylococcus aureus. Loại kháng sinh này là một hỗn hợp kháng khuẩn và nấm có tên pterygospermin, danh pháp hóa học là glucosinolate 4 alpha-L-rhamnosyloxy benzyl isothiocyanate. Nhiều nơi trên thế giới dùng bột nghiền từ hạt để khử trùng nước sông, nước sông trong mùa lũ có tổng số trực trùng Escherichia coli lên tới 1.600 - 18.000 / 100 ml, được xử lý bằng bột hạt chùm ngây trong vài giờ đồng hồ đã giảm xuống còn 1 - 200 / 100 ml. 14/ . Rễ có vị đắng, được xem như một loại thuốc bổ cho cơ thể và phổi, điều kinh, long đàm, lợi tiểu nhẹ. 15/ Ở Nicaragua, nước sắc rễ được dùng chữa bệnh phù thủng. Dịch rễ được dùng ngoài để điều trị chứng mẩn ngứa do dị ứng. Trong rễ và hạt, cũng có chất kháng sinh pterygospermin. 2.4. Vỏ cây được dùng điều trị chứng thiếu vitamin C, đôi khi dùng trị tiêu chảy. 2.5. Trong những năm gần đây, những công trình nghiên cứu được công bố trong các báo "Phytotherapy Rechearch" và "Hort Science" cũng đã cho thấy các tác dụng khác nhau của các bộ phận cây chùm ngây như, chống hạ đường huyết, giảm sưng tấy, chữa viêm loét dạ dày, điều trị chứng hạ huyết áp và ngay cả làm êm dịu thần kinh trung ương. VIII. CÔNG DỤNG CỦA CÂY CHÙM NGÂY TRÊN THẾ GIỚI: 16/ Mỹ hiện nay là nước nhập nguyên liệu Moringa thô nhiều nhất, sử dụng trong công nghê mỹ phẩm cao cấp, nước uống và quan trong hơn là chiết suất thành nguyên liệu tinh cung ứng cho công nghiệp dược phẩm, hóa chất. 17/ Ấn Độ: Chùm Ngây được gọi là sainjna, mungna (Hindi, Asam, Bengal..); Phạn ngữ: Shobhanjana.Là một trong những cây thuốc “dân gian” rất thông dụng tại Ấn Độ. Vỏ thân được dùng trị nóng sốt, đau bao tử, đau bụng khi có kinh, sâu răng, làm thuốc thoa trị hói tóc; trị đau trong cổ họng (dùng chung với hoa của cây nghệ, hạt tiêu đen, rễ củ Dioscorea oppositifolia); trị kinh phong (dùng chung với thuốc phiện); trị đau quanh cổ (thoa chung với căn hành của Melothria heterophylla, Cocci nia cordifolia, hạt mướp (Luffa) và hạt Lagenaria vulgaris); trị tiểu ra máu; trị thổ tả (dùng chung với vỏ thân Calotropis gigantea, Tiêu đen, và Chìa vôi. Hoa dùng làm thuốc bổ, lợi tiểu. Quả giã kỹ với gừng và lá Justicia gendarussa để làm thuốc đắp trị gẫy xương. Lá trị ốm còi, gây nôn và đau bụng khi có kinh. Hạt: dầu từ hạt để trị phong thấp. 18/ Pakistan: Cây được gọi là Sajana, Sigru. Cũng như tại Ấn, Chùm Ngây được dùng rất nhiều để làm các phương thuốc trị bệnh trong dân gian. Ngoài các cáchsử dụng như tại Ấn độ, các thành phần của cây còn được dùng như : Lá giả nát đắp lên vết thương, trị sưng và nhọt, đắp và bọng dịch hoàn để trị sưng và sa; trộn với mật ong đắp lên mắt để trị mắt sưng đỏ.. Vỏ thân dùng để phá thai bằng cách đưa vào tử cung để gây giãn nở. Vỏ rễ dùng sắc lấy nước trị đau răng, đau tai..Rễ tươi của cây non dùng trị nóng sốt , phong thấp, gout, sưng gan và lá lách..Nhựa từ chồi non dùng chung với sữa trị nhức đầu, sưng răng.. 19/ Trung Mỹ: Hạt Chùm Ngây được dùng trị táo bón, mụn cóc và giun sán • Saudi Arabia : Hạt được dùng trị đau bụng, ăn không tiêu, nóng sốt, sưng tấy ngoài da, tiểu đường và đau thắt ngang hông. • Việt Nam : Rễ Chùm Ngây được cho là có tính kích thích, giúp lưu thông máu huyết, làm dễ tiêu hóa, tác dụng trên hệ thần kinh, làm dịu đau. Hoa có tính kích dục. Hạt làm giảm đau. Nhựa (gomme) từ thân có tác dụng làm dịu đau. Liều lượng và các phản ứng phụ cần lưu ý: Hiện nay chưa có những báo cáo về những nguy hại đối với sức khoẻ trong việc sử dụng Hạt và Rễ Chùm Ngây theo các liều lượng trị liệu. Tuy nhiên dùng liều quá cao có thể gây ra buồn nôn, chóng mặt và ói mửa. Liều cho uống : 5gram/ kg trọng lượng cơ thể, thử trên chuột , gây phản ứng keratin hóa quá mức tế bào bao tử và sơ hóa tế bào gan. Liều chích qua màng phúc toan 22 đến 50 mg/ kg trọng lượng cơ thể gây tử vong nơi chuột thử nghiệm. Không nên dùng Rễ Chùm ngây nơi phụ nữ có thai, vì có khả năng gây trụy thai. ( Nguồn:DS Trần Viết Hưng/ ĐH Cần Thơ) 3. Về ứng dụng công nghiệp: gỗ cây chùm ngây rất nhẹ, có thể dùng làm củi, nhưng năng lượng không cao. Nó được xem là nguồn nguyên liệu tiềm năng cho kỹ nghệ giấy và còn được dùng để chế phẩm màu xanh. Vỏ cây có khả năng cung cấp ta-nanh (tannin, tanin), nhựa dầu và sợi thô. 4. Khả năng phòng hộ: Cây chùm ngây thuộc loại cây mọc nhanh và dễ tính, sống được ở những điều kiện đất đai khô cằn và trong điều kiện khí hậu khắc nghiệt, chịu được hạn hán. Do vậy, nhiều nơi trên thế giới, cây chùm ngây được trồng làm hàng rào xanh che chắn cho các khu sản xuất nông nghiệp, che bóng cho các cây công nghiệp dài ngày, chắn gió, chắn cát bay. Ngoài ra, cây có khả năng cải tạo đất, lá dùng làm phân xanh và làm thức ăn bổ sung cho gia súc rất tốt, cây có lá nhỏ, thân thon, tán đẹp nên được trồng làm cảnh. 5. Đặc điểm hình thái học: Cây chùm ngây có dạng sống là cây gỗ nhỏ, cao từ 8 - 10m. Lá kép lông chim 3 lần, dài 30 - 60 cm, với nhiều lá chét màu xanh mốc mốc, không lông, dài 1,3 - 2 cm, rộng 0,3 - 0,6 cm; lá kèm bao lấy chồi. Hoa thơm, to, dạng hơi giống hoa đậu, tràng hoa gồm 5 cánh, màu trắng, vểnh lên, rộng khoảng 2,5 cm. Bộ nhị gồm 5 nhị thụ xen với 5 nhị lép. Bầu noãn 1 buồng do 3 lá noãn, đính phôi trắc mô. Quả nang dài từ 30 - 120 cm, rộng 2 cm, khi khô mở thành 3 mảnh dày. Hạt nhiều (khoảng 20), tròn dẹp, to khoảng 1 cm, có 3 cánh mỏng bao quanh. 6. Đặc điểm phân loại: chùm ngây là một trong 13 loài thuộc chi Moringa, họ Moringaceae, với tên khoa học là Moringa oleifera Lamk.. Trong đó, Moringa là tên chi, được Latin hóa từ tên bản xứ gốc tiếng Tamil murungakkai, oleifera có nghĩa là chứa dầu, được ghép bởi gốc từ olei- (dầu) và -fera (mang, chứa). Tên đồng nghĩa là Moringa pterygosperma Gaertn. (pterygosperma: phôi có cánh, tên kháng sinh pterydospermin cũng từ đây mà có), Guilandina moringa L., Moringa moringa (L.) Small. Trên thế giới, chùm ngây được gọi dưới nhiều tên khác nhau: Tiếng Anh: Horsradish tree, Ben tree, Behn tree, Ben-oil tree, Benzolive tree, West Indian ben, Drumstick tree, Moringa tree Tiếng Pháp: Ben ailé, Ben ailée, Ben oléifère, Moringa ailée, Pois quénique Tiếng Đức: Behenbaum, Behennussbaum, Meerrettichbaum Tiếng Hà Lan: Benboom, Peperwortel boom Tiếng Ý: Been, Bemen. Tiếng Arabia: Habbah ghaliah, Rawag (Sudan), Shagara al ruway (Sudan). Tiếng Bồ Đào Nha: Acácia branca, Moringa, Muringueiro. Tiếng Tây Ban Nha : Arbol de las perlas, Arbol do los aspáragos, Ben, Jacinto (Panama), Jasmin francés, Jazmin francés (Puerto Rico), Maranga, Maranga calalu (Honduras), Marango (Costa Rica), Palo de aceite (Dominican Republic), Palo de abejas (Dominican Republic), Paraíso, Paraíso blanco (Guatemala), Perlas (Guatemala), Resada (Puerto Rico). Tiếng Nga: Моринга олейфера. Tiếng Myanmar: Dandalonbin, Dan da lun. Tiếng Nhật: Wasabi no ki. Tiếng Khmer : Daem mrom. Tiếng Indonesia : Kelor, Kalor. Tiếng Malaysia : Moringa, Muringa, Sigru. Tiếng Ấn Độ : Sobhan jana. Tiếng Tamil: Murungai. Tiếng Thái: Ka naeng doeng, Ma khon kom, Ma rum (bean / pod), Phak i huem, Phak i hum, Phak nuea kai, Phak ma rum (leaves), Se cho ya. 7. Đặc điểm phân bố: Cây có nguồn gốc ở Ấn Độ, Arabia, châu Phi, vùng Viễn Tây châu Mỹ; được trồng và mọc tự nhiên ở vùng nhiệt đới châu Phi, nhiệt đới châu Mỹ, Sri Lanka, Ấn Độ, Mexico, Malabar, Malaysia và Philippines. Ở Việt Nam, từ lâu, cây đã được trồng ở Nha Trang, Phan Thiết, Phú Quốc. Gần đây, kiều bào ở Mỹ Trần Tiễn Khanh đã chuyển về Việt Nam 100 hạt giống, đã được phân phát cho một số nông dân ở Quảng Ngãi, Quảng Nam, Đà Nẵng. 8. Đặc điểm sinh thái: Cây có khả năng sống từ vùng Cận nhiệt đới khô đến ẩm cho đến vùng nhiệt đới rất khô đến vùng rừng ẩm. Chịu lượng mưa từ 480 - 4000 mm/năm, nhiệt độ 18,7 - 28,5oC và pH 4,5 - 8. Chịu được hạn và có thể sinh trưởng tốt trên đất cát khô 9. Nhân giống: Ở Ấn Độ, cây được nhân giống bằng cành 1 - 2 m. Thời vụ thích hợp từ tháng 5 - 8. Cây bắt đầu cho quả sau 6 - 8 tháng trồng. Quả được thu hoạch giữa tháng ba và tháng tư, sau đó thu lại một đợt nữa trong tháng 9 và tháng 10. 10. Tình hình sâu bệnh hại: Sâu bệnh hại thường gặp là Ruồi đục quả Gitona spp., các loài bọ cánh cứng hại lá cây con và cây chồi giâm hom như: Mylloceus discolor, M. viridanus, Ptochus ovulum, thực vật ký sinh Dendrophthoe flacata và các nấm hại bao gồm: Cercospora moringicola, Sphaceloma morindae, Puccinia moringae, Oidium sp., Polyporus gilvus. Như vậy, đối chiếu các tính năng thực vật học, sinh thái học và các thành tựu về dinh dưỡng học, y học, môi trường học, chúng tôi thấy rằng, đây là một loài cây đầy tiềm năng cho việc hỗ trợ sự phát triển cộng đồng nông thôn miền núi và vùng cát ven biển. Ở khu vực miền Trung Việt Nam nói chung và Thừa Thiên Huế nói riêng, cuộc sống của cư dân trên dải đất cát ven biển đang gặp nhiều khó khăn, do thường xuyên chịu ảnh hưởng của thiên tai và điều kiện khắc kiện của môi trường sống, rất cần phát triển những loài cây vạn năng thích hợp. Tôi nghĩ rằng, đã đến lúc nghĩ tới việc bố trí thử nghiệm các mô hình trồng cây đa tác dụng cho vùng cát ven biển và vùng cát nội đồng, mà cây chùm ngây là một đối tượng không thể bỏ qua, hầu giúp cư dân nơi đây có thêm một nguồn tài nguyên mới, hỗ trợ cho việc bảo vệ sức khỏe cộng đồng và cứu đói những lúc giáp hạt.